Banner chính
Thứ Năm, 21/11/2024
Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Ninh Bình

Bệnh bạc lá hại lúa và các biện pháp phòng chống

Thứ Năm, 04/09/2014
Trong những năm gần đây Bệnh bạc lá lúa có xu hướng gây hại ngày càng tăng trên các trà lúa ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tình. Năm 2013 tổng diện tích nhiễm bệnh bạc lá trên toàn tỉnh là  7.904 ha, tăng 70% so với năm 2012. Bệnh gây hại nặng trên những ruộng bón thừa đạm, giống nhiễm như Bắc thơm số 7, LT 2, Tạp giao... bệnh thường phát triển và gây hại từ giai đoạn lúa phân hoá đòng đến chắc xanh. Những ruộng bị hại nặng, năng xuất có thể giảm từ 20-50%, thậm chí tới 70%. Để chủ động phòng, chống bệnh bạc lá lúa hạn chế đến mức thấp nhất sự gây hại của bệnh trên đồng ruộng, cần lưu ý một số biện pháp phòng chống như sau:

 

Vét bệnh từ mép lá, mút lá lan dần vào trong phiến hoặc kéo dài theo gân chính. Vết bệnh lan rộng theo đường gợn sóng màu vàng nâu, vết bệnh lúc đầu có màu xanh tái sau chuyển sang màu nâu vàng và khô. Trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm cao trên bề mặt vết bệnh xuất hiện những giọt dịch vi khuẩn hình tròn nhỏ có màu vàng đục.

 

 

Bệnh bạc lá do vi khuẩn Xanthomnas campestris gây ra. Bệnh thường phát triển mạnh trong điều kiện nóng ẩm, nhiệt độ thích hợp nhất từ 26-300C, và thường gây hại nặng ở vụ lúa mùa.

Vi khuẩn xâm nhập vào cây qua thuỷ khổng, lỗ khí khổng ở trên đầu lá, mép lá, đặc biệt qua các vết thương xây xát trên lá. Trong điều kiện mưa ẩm thích hợp, thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn, trên bề mặt các vết bệnh tiết ra những giọt dịch vi khuẩn. Thông qua sự va chạm gây xây xát giữa các lá lúa, nhờ mưa gió lan truyền bệnh sang các lá khác để tiến hành xâm nhiễm lại nhiều lần trong thời kỳ sinh trưởng của cây lúa. Vì vậy bệnh thường phát sinh mạnh sau các đợt mưa to, gió mạnh. Những ruộng bón quá nhiều đạm, cây lúa xanh tốt, thân lá mềm yếu, hàm lượng đạm tự do trong cây tích luỹ cao thì cây dễ bị nhiễm bệnh nặng. Những chân ruộng chua, trũng, đặc biệt là những vùng đất hẩu thì bệnh phát triển mạnh hơn. Các giống lúa có bản lá to, lá mềm thì bệnh thường nặng hơn như LT 2, Bắc Thơm số 7, Tạp giao...  .. Giai đoạn lúa làm đòng đến chín sữa là giai đoạn lúa mẫn cảm với bệnh.

Nguồn vi khuẩn gây bệnh tồn dư trong rơm rạ, lúa chét, hạt của cây lúa bị bệnh và cỏ dại ký chủ (cỏ lồng vực, cỏ môi, cỏ lá tre, cỏ tranh,...). Ngoài ra, nó còn tồn tại ở dạng viên keo vi khuẩn. Vi khuẩn lây nhiễm nhờ giọt sương, nước tưới, nước mưa, nước lụt và gió.

 

 

Đến nay chưa có loại thuốc đặc hiệu để trừ bệnh, Các loại thuốc có trong danh mục đang sử dụng chỉ có tác dụng phòng bệnh khi bệnh chớm xuất hiện. Để phòng chống bệnh bạc lá một cách hiệu quả cần chủ động phòng  bệnh ngay từ đầu vụ bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp:

- Sử dụng các loại giống lúa có khả năng chống chịu hoặc ít nhiễm bệnh, hạn chế gieo cấy các giống nhiễm bệnh nặng.

- Áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác lúa cải tiến (SRI), quản lý dịch hại tổng hợp IPM, trong đó chú trọng biện pháp chăm sóc như bón thúc sớm, bón tập trung và cân đối N,P,K để tạo điều kiện cho cây lúa khoẻ, tăng khả năng chống chịu đối với bệnh.

- Trên những ruộng bệnh đã xuất hiện, dừng bón phân đạm, không phun các chất kích thích sinh trưởng, phân bón lá và luôn giữ đủ nước.

- Tiến hành phun phòng trên những ruông xanh tốt, thừa đạm, giống nhiễm và trên những ruộng chớm xuất hiện bệnh, trước hoặc ngay sau các đợt mưa giông bằng một trong các loại thuốc đặc hiệu như: Physan 20L, Lobo 8WP, Xanthomix 20WP, Aivan…

(chú ý: đảm bảo đủ nồng độ và lượng nước thuốc pha từ 20-25lít/ sào).

 

 

 

 

Đỗ Thị Thao (Chi cục BVTV NB)

3. Biện pháp quản lý bệnh:

2. Nguyên nhân gây bệnh và quy luật phát sinh, phát triển của bệnh:

1. Triệu chứng bệnh:

Các tin khác