Banner chính
Thứ Năm, 21/11/2024
Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Ninh Bình

Chiết xuất từ lá cây Bìm Bịp Vườn quốc gia Cúc Phương có tác dụng chống ô xi hóa, kích thích hệ miễn dịch và ức chế tế bào ung thư

Thứ Tư, 30/12/2020
Ung thư là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới, chiếm 8,6 triệu người trong số các trường hợp tử vong năm 2018. Ung thư là tên gọi chung để mô tả một nhóm bệnh phản ánh về sự thay đổi sinh sản, tăng trưởng và chức năng của tế bào. Các tế bào bình thường trở nên bất thường và tăng sinh một cách không kiểm soát, xâm lấn các mô ở hay di căn qua hệ thống bạch huyết hay mạch máu. Nếu không được chữa trị sớm, hầu hết các loại ung thư có thể gây tử vong, đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước phát triển. Tuy nhiên bệnh ung thư có thể chữa trị và nhiều bệnh có thể chữa lành nếu được phát hiện và điều trị sớm.

Cây Bìm bịp có tên khoa học là Clinacanthus nutans, thuộc họ Ô rô (Canthaceae), còn được gọi với tên khác là cây mảnh cọng, cây xương khỉ mọc hoang ở nhiều nơi có khí hậu nhiệt đới. Theo kinh nghiệm dân gian cây này có tác dụng mát gan, lợi mật, chữa vàng da, lở loét, chữa đau nhức xương khớp... đã có những lời đồn đại rằng các thầy lang đã bẻ gẫy chân con Bìm bịp non hay con Khỉ non và phát hiện ra con mẹ đã mang lá cây này về chữa trị gãy xương vô cùng hiệu quả, từ đó cây này được gọi tên là cây Bìm bịp hay cây xương Khỉ. Những người dân vùng rừng quốc gia Cúc Phương khi phát hiện bị ung thư đã lấy cây này để sắc uống, thấy bệnh có thuyên giảm, kéo dài thêm sự sống. Tuy nhiên đó chỉ là kinh nghiệm dân gian, chưa có bằng chứng khoa học xác thực.

Việc phân tích phổ sắc ký lỏng (LC-MS), phổ sắc ký khí (GC-MS) và phổ hồng ngoại (Ỉ) của dịch chiết Cloroform để tìm ra các bằng chứng xác thực về khả năng chống ô xi hóa và thử độc tính của các dịch chiết trên 8 dòng tế bào ung thư nuôi cấy, cũng như những bằng chứng tiền lâm sàng về tính kháng ung thư của chất ức chế CTLA-4 và PD-1 đã đặt nền tảng khoa học cho việc phát triển liệu pháp ức chế chốt kiểm soát miễn dịch tế bào T trong điều trị ung thư trong các dịch chiết của lá cây này.

1. Chuẩn bị nguyên liệu

Gốc 1,1-diphenyl-2-picrrylhydrazyl (DPPH), gốc gavlinoxyl, axit 6-hydroxy-2,5,7,8-tetramethylchroman-2-carboxylic (Trolox), nước muối đệm phosphate (PBS), xanh trypan, 3-(4,5-Dimethylthiazol-2-yl)-2,5diphenyltetrazolium bromide (MTT) và dung dịch trypsin-EDTA 10 x. Hydroghen peroxide và natri nitroprusside (SNP). Tất cả các dòng tế bào ung thư, bao gồm: ung thư biểu mô tế bào gan ở người (HepG2), dòng tế bào u nguyên bào thần kinh ở người (IMR-32), dòng tế bào ung thư phổi ở người (NCI-H23), dòng tế bào ung thư dạ dày ở người (SNU-1) dòng tế bào (LS-174T), dòng tế bào hồng cầu ở người (K-562), dòng tế bào ung thư cổ tử cung ở người (HeLa) và dòng tế bào ung thư hạch Burkitt của con người (Raji) và các tế bào nội mô tĩnh mạch rốn của con người (HUVEC).

2. Chuẩn bị các chất chiết xuất

Toàn bộ cây Bìm bịp được thu hoạch mới và sấy khô ở nhiệt đô 40-500C, các lá sau đó được nghiền thành bột và ngâm liên tục trong cloroform (BBC), etanol (BBE) và nước cất (BBN) ở nhiệt độ phòng. Dịch chiết trong cả 3 dung môi được thu riêng trong chai thủy tinh sạch, sau đó được lọc bằng Whatman no. 1 tờ giất, các màng lọc trong cloroform và etanol được làm khô bằng cách sử dụng thiết bị bay hơi quay, các màng lọc trong nước cất được làm khô bằng máy sấy đông lạnh, tất cả các cao chiết được giữ ở 200C cho đến khi sử dụng.

3. Xác định tính chất chống ô xy hóa và kết quả

- Xét nghiệm quét gốc DPPH: Mỗi dung dịch chiết (50 µL) sau khi được pha loãng trong etanol 70% thành 12,5, 25, 50 và 100 µg/ml, được trộn với 195 µL dung dịch etanol DPPH (0,2 mM). Sau đó, hỗn hợp được xoay nhẹ trong 1 phút và giữ trong bóng tối 60 phút. Hoạt động quét gốc DPPH của mỗi chiết xuất được xác định bằng phép đo phổ cộng hưởng spin electron.

Kết quả: DPPH đã được sử dụng rộng rãi để đo tính chất chống ô xy hóa cảu các mẫu khác nhau bao gồm: trái cây, đồ uống và thậm chí chiết xuất từ thực vật. Trong nghiên cứu thì trolox (Vitamin E) đã được sử dụng làm tiêu chuẩn đo khả năng chống ô xy hóa của một chiết xuất sẽ được thể hiện trong chiết xuất đó so với chất đối chứng. Trolox - Đường chuẩn DPPH được tính theo µM Trolox theo phương trình đường chuẩn là y = 0,0096x + 0,5816 (R2 = 0,9918).

- Xét nghiệm hoạt tính quét gốc Galvinoxyl: các chất chiết xuất được pha loãng huyết thanh thành 12,5, 25, 50 và 100 µg/ml dung dịch etanol 70% và mỗi dung dịch (50 µL) được trộn với 150 µL dung dịc etan gốc Galvinoxyl (0,125 mM). Sau đó, hỗn hợp được xoay nhẹ trong 1 phút và giữ trong bóng tối 60 phút. Hoạt động quét gốc Galvinoxyl của mỗi chiết xuất được xác định bằng phép đo phổ cộng hưởng spin electron.

Kết quả: Hoạt động quét gốc Galvinoxyl trong ba loại chiết xuất, chiết xuất chloroform sở hữu hoạt động quét gốc cao nhất nhưng vẫn kém hơn Vitamin E do dịch chiết còn ở dạng thô (kết quả đại diện cho giá trị trung bình ± SEM)

- Xét nghiệm quét gốc Nitric Oxide (NO): Natri nitroprusside (SNP) tự tạo oxit nitric (NO) bằng cách tương tác với o xy trong dung dịch nước ở pH sinh lý (pH 7,4), Scavenger of NO cuối cùng sẽ làm giảm việc sản xuất ion nitric trong dung dịch có thể được xác định bằng cách sử dụng thuốc thử Griess. Tóm lại, mỗi dịch chiết (50 µL) có nồng độ khác nhau (12,5, 25, 50 và 100 µg/ml) được trộn với thể tích SNP bằng nhau (nồng độ cuối cùng 10mM) trong dung dịch muối đệm phốt phát (PBS) và ủ ở nhiệt độ phòng trong 150 phút. DMSO trong nước cất (0,1%) mà không có chiết xuất được dùng làm đối chứng âm và quercetin được sử dụng làm đối chứng dương. Sau khi ủ, các mẫu từ trên được phản ứng với thể tích tương đương thuốc thử Griess (1% sulphanilamide, 0,1% naphthylethylenediaine dichloride và 3% acid phophoric. Độ hấp thụ của choromophore được hình thành trong phản ứng được đo ở bước sóng 540nm so với đối chứng tương ứng. Lượng nitrit trong các mẫu được tính từ đường cong chuẩn natri nitrit (0 FPV 100M).

Kết quả: Hoạt động quét gốc Nitric Oxide của ba chiết xuất khác nhau của lá C.nutans. Nó đã được quan sát thấy rằng chỉ có BBN có khả năng làm sạch gốc oxit nitric và theo cách phụ thuộc nồng độ. Hoạt tính bắt gốc NO cao nhất là 50% ở nồng độ được ghi nhận bằng 68,64 µg/ml BBN. Hàm lượng nitric cao hơn đáng kể trong BBE ở mức 100 µg/ml mà không có hoạt động quét gốc của BBC.

- Xét nghiệm hoạt tính quét gốc Hydrogen Peroxide: Tất cả ba chiết xuất của Bìm bịp đã được thử nghiệm để tìm kiếm tiềm năng chống lại Hydro Peroxide theo Rush et al. Tóm lại, dịch chiết xuất mẫu (2 mL) với nồng độ khác nhau (12,5, 25, 50 và 100 µg/ml) được trộn với dung dịch Hydrogen Peroxide (H2O2) (1,2mL, 40mM) trong dung dịch đệm phốt phát (pH 7,4). Hốn hợp được ủ 10 phút và độ hấp thụ được đo ở 230nm, một thể tích tương đương của nước cất không có H2O2 được dùng làm mẫu trắng.

Kết quả: BBC và BBN cho thấy các hoạt động quét Hydrogen Peroxide tương đối kém, mặc dù BBE là công cụ quét Hydrogen Peroxide hiệu q1ủa nhất, cho thấy hoạt động quét ~50% ở nồng độ 75pg/ml.

- Nuôi cấy tế bào: Ba chiết xuất khác nhau đã được thử nghiệm trên tám dòng tế bào ung thư ở người, bao gồm ung thư biểu mô tế bào gan ở người (HepG2), dòng tế bào u nguyên bào thần kinh ở người (IMR-32), dòng tế bào ung thư phổi ở người (NCI-H23), dòng tế bào ung thư dạ dày ở người (SNU-1), dòng tế bào adenocarcinoma đại tràng ở người (LS-174T), dòng tế bào hồng cầu của con người (K-562), dòng tế bào ung thư cổ tử cung của con người (HeLa), dòng ung thư hạch burkitt của con người (Raji) và tế bào thường của con người các tế bào (HUVEC) cho hoạt động chống đông của chúng.

Tất cả các dòng tế bào được duy trì trong môi trường RPMI 1640 hoặc DMF chứa 10% (v/v) huyết thanh bào thai bào bò (FBS) được bổ sung penicillin (100 U/mL) và streptomycin (100 µg/ml), ngoại trừ HUVEC được trồng trong M200 được bổ sung với bổ sung tăng trường huyết thanh thấp ở 370C, trong môi trường không khí ẩm có chứa 5% CO2 trong lò ấp.

- Xét nghiệm khả năng đánh giá hoạt tính ức chế tế bào ung thư: Hoạt tính chống tăng sinh của ba chiết xuất được kiểm tra bằng cách sử dụng xét nghiệm MTT. Tóm lại, các tế bào (6x103 tế bào/mL) được gieo vào đĩa 96 đáy phẳng và được xử lý bằng ba chiết xuất khác nhau ở khoảng nồng độ từ 3.125 đến 100pg/ml sau khi tế bào được ủ ở 370C trong 5% CO2/ độ ẩm hỗn hợp không khí 95% cho qua đêm. Sau 72 giờ sau điều trị, 20 µL 0,5% 3 (4,5-dimethyl-thiazol-2-yl) 2,5-diphenyltetrazolium bromide (MTT) (Sigma, Saint Louis, MO, USA) trong dung dịch muối đệm phosphate (PBS) đã được thêm vào từng giếng và được ủ thêm 4h trong tủ ấm tạo ẩm 5% CO2. Tấm được ly tâm ở 3000 vòng/phút trong 10 phút và phần nổi phía trên đã được gỡ bỏ. Các tinh thể formazan trong mỗi giếng được hòa tan bằng cách thêm 100 µL diphenyl sulfoxide (DMSO), lượng formazan màu tím được tạo ra so với số lượng tế bào khả thi được xác định bằng cách đo độ hấp thụ bằng đầu đọc quang phổ vi bản ở bước sóng 550nm.

Kết quả: Hoạt tính chống rối loạn đông máu của chiết xuất lá cây Bìm bịp chống lại ung thư tế bào gan ở người (HeG2), dòng tế bào u nguyên bào thần kinh ở người (IMR-32), dòng tế bào ung thư phổi ở người (NCI-H23), dòng tế bào ung thư dạ dày ở người (SNU-1), dòng tế bào ung thư biểu mô đại tràng ở người (LS-174T), dòng tế bào hồng cầu của con người (K-562), dòng tế bào ung thư cổ tử cung của con người (HeLa), dòng ung thư hạch burkitt của con người (Raji) đã được hiển thị trong các tế bào HeLa và K-562 sau khi được xử lý bằng chiết xuất từ lá cây Bìm bịp trong dung dịch nước ở mức 100 µg, nhưng không phải là các tế bào khác.

Chiết xuất ethanol của lá cây Bìm bịp cho thấy không có hoạt động đối với bốn dòng tế bào ung thư, cụ thể: là các dòng tế bào NCI-23, HeLa, K-562 và Raji. BBE cho thấy hoạt động chống tăng sinh tương đối yếu trong các dòng tế bào IMR-32, SNU-1, và LS-174T. Mặc dù sự ức chế đã được quan sát thấy trong các dòng tế bào HepG2 với tốc độ 100 µg/ml. BBC là tác nhân chống tăng sinh mạnh nhất, chống lại hầu hết các dòng tế bào ung thư được thử nghiệm trong thí nghiệm. BBN cho thấy hoạt động chống rối loạn đông máu cao nhất trên các dòng tế bào ung thư K-562 và Raji ở mức 100 µg/ml với tỷ lệ ức chế tương ứng là 100 µg/ml, tuy nhiên không cóa hiệu ứng đã được quan sát trong các dòng tế bào IMR-32.

- Phân tích GC-MS: Dịch chiết cloroform được phân tích bằng sắc ký khí được trang bị trong khối phổ (GC-MS-QP2010 Plus-Shimadzu) nhiệt độ cột được đặt thành 500C trong 4 phút, sau đó tăng lên 3200C với tốc độ 70C/phút và sau đó được giữ trong 20 phút. Nhiệt độ kim phun được đặt ở 2800C (chế độ phân chia với tỷ lệ được điều chỉnh thành 20:1, tiêm L), tốc độ dòng của khí mang helium được đặt thành 1mL/phút, tổng thời gian chạy là 60 phút. Phổ khối thu được từ phạm vi m/e 40 đến 700 và ion hóa electron ở 70 eV, sắc ký đồ của mẫu được xác định bằng cách so sánh phổ khối của chúng với dữ liệu thư viện NIST08 và thời gian lưu của GC so với các tiêu chuẩn đã biết.

Kết quả: mười bốn hợp chất đã được xác định, thành phần hóa học chính là 1,2-Benzenelicarboxylic acid, momo (2-ethylhexyl) ester với diện tích pic là 28,60 %. Các báo cáo trước đây cho rằng axit 1,2-Benzenelicarboxylic acid, ester momo (2-ethylhexyl) có hoạt tính chống vi khuẩn. Những chất hóa học này cũng có thể đóng góp vào hoạt động của dược phẩm, bao gồm các đặc tính chống oxy hóa và chống tăng sinh bất thường của tế bào.

- Phân tích LC-MS: Dịch chiết cloroform được phân tích bằng phổ sắc ký lỏng tại Trung tâm ươm tạo công nghệ - Viện hàn lâm khoa học Việt Nam. Sau khi được tách trong hệ thống sắc ký lỏng, mẫu cần phân tích sẽ đi qua một ống dẫn đến đầu dò MS. Tại đây diễn ra quá trình ion hóa trong phòng API với kiểu ESI, APCI hoặc APPL. Ion sinh ra được tập trung và gia tốc bằng hệ quang học ion để đưa vào bộ phân tích khối. Tại bộ phận phân tích khối, tứ cực thứ nhất sẽ chọn ion mẹ có m/z xác định, các phân mảnh của ion này được tạo ra tại buồng va chạm (collision cell) nhờ tương tác với khí trơ và được phân tích nhờ tứ cực thứ ba, tạo ra tín hiệu đặc trưng tại bộ phận phát hiện ion.

Kết quả: Phân tích phổ sắc ký lỏng đã thu được 7 chất có trong dung dịch chiết để khẳng định nhưxngx hoạt tính chống oxy hóa cơ bản như Vitamin A, C, Quercetin. Đặc biệt khẳng định được dung dịch chiết từ cây Bìm bịp có các hợpk chất có khả năng kích thích hệ miễn dịch, ức chế tế bào ung thư đã được công bố bằng phương pháp tổng hợp trong liệu pháp ức chế chốt kiểm soát miễn dịch.

4. Tính mới tính sáng tạo của sản phẩm

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng mất cân bằng nội môi oxy hóa tế bào với sản xuất gốc tự do tăng cao là một trong những nguyên nhân phổ biến của sự khởi đầu và tiến triển ung thư và nhiều bệnh khác. Phương pháp điều trị hiện tại cho bệnh nhân ung thư như: hóa trị và xạ trị cũng có thể góp phần gây tổn thương oxy hóa cho các tế bào khối u cũng như các tế bào khỏe mạnh lân cận.

Sau thí nghiệm kiểm tra sự tác động của chiết xuất Bìm bịp trong ba dung môi: chloroform, ethanol và nước, thấy rằng BBC có chứa các yếu tố chống oxy hóa và có khả năng loại bỏ các gốc tự do, đặc biệt là các chất chiết xuất từ chloroform có khả năng ức chê sự tăng sinh tế bào của 7 dòng tế bào ung thư được thử nghiệm, đó là: HeG2, IMR-32, NCL-H23, SNU-1, HeLa, LS-174T, K-562 và Raji tế bào.

Kết quả phân tích LC-MS đã tìm thấy các chất được sử dụng trong liệu pháp điều trị ung thư bằng phương pháp tổng hợp đó là: 132-hydroxy-(132-S)-chlorophyll b, 132-hydroxy-(132-S)-phaeophytin a. Đây là các chất bổ sung tăng cường hiệu ứng hoạt động cho cho kháng thể Ipilimumab duy trì, phục hồi và tái tạo các tế bào T trong phương pháp điều trị ung thư bằng kích thích hệ miễn dịch tự nhiên trong cơ thể có trong thuốc YERVOY 5mg/ml Ipilimumab. Các quan sát này cho thấy các thành phần phytochemical có trong chiết xuất chloroform có thể được sử dụng như một liệu pháp mới trong phòng ngừa và điều trị ung thư thay thế hoặc hóa trị thay thế cho bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh ung thư.

Liệu pháp ức chế chốt kiểm soát miễn dịch là liệu pháp giải phóng ức chế miễn dịch thông qua loại bỏ tín hiệu ức chế hoạt hóa/hoạt động của tế bào T. Khi được hoạt hóa bởi kháng nguyên “lạ” (antigen) và tín hiệu đồng hoạt hóa (costimunatory signal), tế bào T phân chia để tạo ra hàng triệu tế bào T đặc hiệu kháng nguyên. Những tế bào T đặc hiệu kháng nguyên này tiết ra cytokine, inteferon và tham gia vào quá trình tiêu diệt chủ động (active killing) để loại bỏ tác nhân gây bệnh. Điểm mấu chốt của một hệ miễn dịch hiệu quả là khả năng phân biệt được tác nhân gây bệnh với tế bào bình thường của cơ thể, chỉ tấn công những tế bào “lạ”. Cơ chế giải phóng miễn dịch chủ yếu của chất ức chế CTLA-4 là thông qua việc ngăn chặn tương tác của thụ thể CTLA-4 với phối tử B7, do đó cho phép tế bào T tiếp tục được hoạt hóa thông qua con đường B7/CD28. Cấu trúc không gian của hỗn hợp CTLA-4 với ipilmumab, 2-ethylhexyl, chlorophyll b phaeophytin a (là kháng thể gắn CTLA-4) cho thấy ipilmumab tương tác trực tiếp với CTLA-4 ở vị trí mà B7 dùng để bám vào CTLA-4, do đó đã ngăn chặn sự ức chế của quá trình hoạt hóa của tế bào T, chất ức chế thụ thể CTLA-4 làm tăng số lượng tế bào T độc đặc hiệu kháng nguyên của tế bào ung thư, chứ không chỉ làm tăng số lượng tế bào T nói chung.

Cây Bìm bịp dễ trồng, dễ thu hoạch với giá trị rẻ hơn rất nhiều so với các hợp chất được sử dụng trong thuốc chữa ung thư hiện tại, với sự tiến bộ của ngành y học hiện nay việc chiết xuất và bào chế cây Bìm bịp thành viên nang mềm thành thực phẩm dinh dưỡng phòng ngừa ung thư hoặc làm sản phẩm điều trị thay thế cho những bệnh nhân bị mắc ung thư sẽ góp phần đẩy lùi căn bệnh ung thư trong xã hội.

Đông Hà

Các tin khác