Nếu như thời gian trước, công tác quản lý trong giáo dục chủ yếu thông qua hồ sơ, sổ sách là chính, thì giờ đây, việc quản lý hồ sơ, sổ sách của cán bộ, giáo viên đã được đơn giản hóa bằng công nghệ thông tin. Các dữ liệu của ngành giáo dục đã được cập nhật vào hệ thống phần mềm giúp cho cán bộ quản lý tiện lợi mà không rườm rà về mặt sổ sách. Xu hướng ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy, học tập cũng ngày càng được mở rộng. Ngành giáo dục cũng đã phát triển mô hình giảng dạy học trực tuyến để người học có thể học mọi nơi, mọi lúc, chủ động trong việc học tập hiệu quả hơn. Lần đầu tiên, một cơ sở dữ liệu ngành được hình thành. Theo đó, ngành giáo dục đã hoàn tất việc số hóa, gắn mã định danh cho hơn 53.000 cơ sở giáo dục đào tạo, 24 triệu học sinh, sinh viên và 1,4 triệu giáo viên. Đồng thời, xây dựng và phát triển kho học liệu số dùng chung (bao gồm cả học liệu mở) với khoảng 5.000 bài giảng e-learning, 2.000 video bài giảng trên truyền hình, 200 thí nghiệm ảo, 200 đầu sách giáo khoa, 35.000 câu hỏi trắc nghiệm và trên 7.500 luận án tiến sĩ. Đặc biệt, trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 trong thời gian vừa qua, đã đánh thức tầm nhìn cho tương lai, ngành giáo dục đã triển khai quyết liệt, mạnh mẽ, hiệu quả dạy và học qua các ứng dụng trên nền tảng internet. Theo báo cáo Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (Programme for International Student Assessment) do Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố, việc học trực tuyến để phòng, chống đại dịch Covid-19 của Việt Nam có nhiều điểm tích cực so với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác với 79,7% học sinh phổ thông được học trực tuyến so mức trung bình chung của các nước OECD là 67,5%. Ở bậc đại học, có trên 50% cơ sở giáo dục cũng dạy học từ xa, trong đó nhiều trường áp dụng trực tuyến hoàn toàn. Dạy học trực tuyến đã giúp rút ngắn thời gian thực dạy khi học sinh trở lại trường học, tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh. Hình thức dạy học này cũng giúp giáo viên, học sinh làm quen và tăng cường hơn các kỹ năng công nghệ thông tin, thích ứng với hình thức học tập mới của giáo dục tiên tiến trong thời đại công nghệ 4.0.
Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với ba trụ cột chính của chuyển đổi số Quốc gia là: Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số, trong đó một trong 8 lĩnh vực chuyển đổi số ưu tiên hàng đầu là Giáo dục; xác định đào tạo kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực số là yếu tố then chốt trong việc xây dựng lực lượng nòng cốt, hình thành mạng lưới chuyên gia chuyển đổi số trên toàn quốc để dẫn dắt, tổ chức, lan tỏa tiến trình chuyển đổi số góp phần đảm bảo công cuộc chuyển đổi số Quốc gia một cách nhanh chóng, hiệu quả, bền vững và thành công.
CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG NGÀNH GIÁO DỤC TẠI VIỆT NAM
Giáo dục là một trong các lĩnh vực được ưu tiên đầu tư trong chương trình chuyển đổi số quốc gia. Chuyển đổi số trong ngành giáo dục đóng vai trò rất quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo học sinh, sinh viên, giúp Việt Nam trở thành những quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo. Chuyển đổi số trong ngành giáo dục cần phải có nền tảng công nghệ quốc gia thống nhất để tất cả mọi người trong ngành giáo dục đều có thể tham gia. Tài nguyên số, học thuật cũng cần phải thực hiện trên công nghệ thống nhất để mọi công việc học tập, giảng dạy đem lại hiệu quả tốt nhất.
Chuyển đổi số ngành giáo dục được ứng dụng dưới 3 hình thức chính: Ứng dụng công nghệ trong phương pháp giảng dạy, lớp học thông minh, lập trình…vào việc giảng dạy. Ứng dụng công nghệ trong quản lý, công cụ vận hành, quản lý. Ứng dụng công nghệ trong lớp học, công cụ giảng dạy, cơ sở vật chất.
Ứng dụng chuyển đổi số trong trong ngành giáo dục tại Việt Nam
Ứng dụng chuyển đổi số trong phương pháp giảng dạy
Xu hướng công nghệ số không gian giảng dạy, học tập cần được nhân rộng, các thiết bị thông minh được lắp đặt tại các lớp học như: đầu ghi hình, bàn học thông minh, bảng điện tử thông minh, thiết bị họp trực tuyến,…đã được đưa vào sử dụng.
Nhiều doanh nghiệp giáo dục cũng tạo điều kiện để sinh viên tham gia trải nghiệm, tiếp cận công nghệ cao, thậm chí tham gia các chuyến tham quan thực tế ảo. Những ứng dụng chuyện đổi số giáo dục trong phương pháp dạy học như khóa học trực tuyến E – learning; Phương pháp học tập thông qua các dự án; Phương pháp học bằng ứng dụng thực tế ảo; Các lớp học về lập trình, STEM, STEAM, Tiếng anh công nghệ,....
Việc áp dụng công nghệ vào trong phương pháp giảng dạy khiến cho nhiều trường vẫn chưa quen với phương pháp này, hay cơ sở vật chất điều kiện kinh tế của một số trường khiến cho việc học theo phương pháp này chưa hiệu quả.
Ứng dụng công nghệ trong quản lý
Hiện nay, phần mềm quản lý trường học đã được nhiều đơn vị công lập áp dụng. Những doanh nghiệp giáo dục tư nhân có sử dụng các phần mềm để quản lý, dần dần được số hóa bằng những phần mềm quản lý tài sản, phần mềm quản lý trường học chuyên biệt…Ứng dụng công nghệ này, giúp người học dễ dàng trong tra cứu thông tin khi đến thư viện, hay giáo viên, quản lý có thể quản lý được bảng điểm học sinh, thời khóa biểu, hay các thông tin khác.
Việc áp dụng dạy học bằng ứng dụng công nghệ lại gặp rất nhiều khó khăn về công nghệ, kiểm soát, đánh giá năng lực người học…Nền tảng cơ bản của chuyển đổi số trong giáo dục dựa vào cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu số chuyên ngành, đường lối, chủ trương chính sách và đội ngũ lãnh đạo, cán bộ viên chức, giảng viên, giáo viên, người học,… tạo nên sức phức tạp khó thực hiện.
Sử dụng công nghệ để vận hành, quản lý doanh nghiệp giáo dục
Ngành giáo dục đang tích cực thúc đẩy sự tái phát triển công nghệ, quy trình làm việc theo hướng online, đẩy mạnh việc ứng dụng BigData, IoT…tăng cường sự kết nối giữa các phòng ban. Mọi hoạt động vận hành như một doanh nghiệp, có các bộ phận hỗ trợ như: Hành chính nhân sự, kế toán tài chính….Thậm chí, một số trường học tư nhân lớn có sử dụng phần mềm để làm việc như: phần mềm kế toán, phần mềm quản lý nhân sự để tính lương,…Tuy nhiên hệ thống các công cụ đang khá rời rạc, chưa tối ưu hóa được cơ sở dữ liệu.
Chuyển đổi số trong giáo dục cần có những điều kiện như đòi hỏi phải có mạng internet, máy móc, phần mềm học thì những vấn đề này khá dễ dàng để thực hiện được. Cái khó ở đây trong chuyển đối số giáo dục là thay đổi tư duy và thói quen tại các cơ sở đào tạo. Chuyển đổi số trong giáo dục muốn phát triển tốt thì yếu tố nhân lực cần được ưu tiên nhất. Các trường đại học cần mở lớp đào tạo đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật để thích ứng cho cả nước, mở những hệ đào tạo tài năng nhất.
Vai trò chuyển đổi số trong ngành giáo dục tại Việt Nam
Chủ động trong việc học tập
Công nghệ số đã mở ra không gian học tập thoải mái qua mạng Internet, có thể học mọi lúc, mọi nơi. Giờ đây, người học có thể tiếp thu kiến thức dễ dàng, thuận tiện hơn. Chính điều này, đã mở ra cho Việt Nam nói riêng một nền giáo dục mở hoàn toàn mới mang tới không gian học tập lý tưởng, phù hợp với mọi đối tượng. Có thể học ở nhà hay bất kỳ đâu mà họ cảm thấy thoải mái nhất, tiếp thu kiến thức tốt nhất.Với một tinh thần thoải mái, hiển nhiên kết quả học tập sẽ được cải thiện, nâng cao hơn. Giúp loại bỏ những giới hạn về khoảng cách, tối ưu thời gian học, nâng cao tư duy cho người học.
Không giới hạn trong truy cập tài liệu học tập
Truy cập tài liệu học tập không giới hạn. Với kho tài liệu khổng lồ, không giới hạn, có thể truy cập một cách dễ dàng, đồng thời tiết kiệm được nhiều chi phí. Hơn nữa, chuyển đổi số trong ngành giáo dục giúp chúng ta tìm kiếm, khai thác học liệu nhanh bằng các thiết bị trực tuyến, không bị giới hạn bởi khả năng tài chính của người dùng, giúp chia sẻ tài liệu, giáo trình giữa giáo viên và học sinh sẽ dễ dàng và tiết kiệm hơn nên có thể giảm thiểu được chi phí in ấn.
Chất lượng giáo dục được nâng cao
Chuyển đổi số trong giáo dục đã tạo nên kỷ nguyên mới, khi mà người dạy và người học được trao quyền để áp dụng công nghệ. Các thành tựu như: Bigdata giúp lưu trữ mọi kiến thức lên mạng. IoT giúp theo dõi hoạt động của học sinh, quản lý, giám sát học sinh. Blockchain giúp xây dựng hệ thống quản lý thông tin và hồ sơ giáo dục của học sinh, cho phép hợp nhất, quản lý và chia sẻ dữ liệu từ nhiều trường học, ghi chép lại lịch sử học tập, bảng điểm của học sinh để đảm bảo thông tin dữ liệu được đồng nhất, minh bạch.
Tiết kiệm tối đa chi phí học tập
Khả năng tiết kiệm chi phí là một lợi ích lớn, thiết thực mà chuyển đổi số trong giáo dục đem lại. Kỷ nguyên học tập trực tuyến sẽ mở ra cơ hội học tập với chi phí rẻ so với trước đây các do trường học sẽ phải tốn ít chi phí hơn để chi trả cho các vấn đề liên quan đến mặt bằng, cơ sở vật chất, thiết bị,….Chuyển đổi số cũng tạo ra nhiều sự lựa chọn hơn cho người học. Thay vì đến các trường công, họ có thể tham gia vào các khóa học E-learning với chi phí rẻ hơn nhiều lần. Thậm chí người học còn có thể tùy chọn những khóa học phù hợp với bản thân và những môn mà họ thực sự quan tâm. Điều này giúp cho việc học tập hiệu quả và chất lượng hơn.
Tạo môi trường giáo dục linh động
Thay vì vài chục học sinh phải ngồi trong phòng học với bốn bức tường như trước đây, công nghệ số đã mở ra một không gian học tập linh động hơn. Giờ đây, người học có thể tiếp thu kiến thức một cách thuận tiện và dễ dàng trên mọi thiết bị (máy tính, laptop, smartphone,…). Điều này đã mở ra một nền giáo dục mở hoàn toàn mới. Bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ đâu, bất cứ ai đều có thể tiếp cận được các thông tin kiến thức một cách đa chiều nhất. Nó loại bỏ hoàn toàn những giới hạn về khoảng cách, tối ưu thời gian học và nâng cao nhận thức, tư duy của người học. Điển hình như chương trình rèn kĩ năng cho hệ thống Kiểm tra Anh ngữ Quốc tế IELTS ( International English Language Testing System) do công ty IELTS Advantage Hoa kì phát hành trên toàn cầu hoặc phần mềm trực tuyến lớp bồi dưỡng thực hiện Chương trình GDPT mới cho giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông giai đoạn 2019-2021 đối với mỗi cấp học (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) của Bộ Giáo dục và Đào tạo,...là những minh chứng về việc chuyển đổi số hỗ trợ người học giải phóng thời gian và không gian lớp học.
Truy cập tài liệu học tập không giới hạn
Chuyển đổi số sẽ tạo ra kho học liệu mở khổng lồ cho người học. Điều đó có nghĩa là học sinh có thể truy cập vào các tài nguyên học tập một cách dễ dàng và ít tốn kém hơn. Thay vì phải tốn chi phí để mua sách hay đến thư viện để mượn. Hiện nay, người học có thể khai thác học liệu nhanh chóng bằng các thiết bị trực tuyến mà không bị giới hạn bất kể tình trạng kinh tế của họ. Mặt khác, chuyển đổi số cũng giúp việc chia sẻ tài liệu, giáo trình giữa học sinh và giáo viên trở nên dễ dàng và tiết kiệm hơn do giảm thiểu được các chi phí về in ấn.
Tăng tính tương tác và trải nghiệm thực tế
Nhiều người nghĩ rằng học trực tuyến sẽ làm giới hạn khả năng tương tác giữa người dạy và người học. Nhưng thực tế, phương pháp học mới này lại giúp gia tăng tính tương tác hai chiều do người học có thể nói chuyện face to face một – một với giáo viên hướng dẫn mà không bị giới hạn bởi không gian. Ngoài ra, những công nghệ 4.0 như ứng dụng thực tế ảo VR, thực tế tăng cường AR cũng tạo ra những trải nghiệm thực tế “thật” hơn cho người học. So với phương pháp học lý thuyết truyền thống chỉ có thể tưởng tượng qua sách vở, công nghệ mới giúp người học có những trải nghiệm đa giác quan, tạo cảm giác tò mò, hứng thú hơn khi học.
Vận hành các cơ sở đào tạo tốt hơn
Để áp dụng công nghệ vào vận hành giúp quản lý giáo viên và học sinh, tiết kiệm, giảm lãng phí và tăng hiệu suất chất lượng cao hơn. Điển hình như phần mềm LMS dạy, học và thi trực tuyến mang nhiều tính năng tuyệt vời cho nhà quản lí, người dạy và học hoặc phần mềm vận hành nộp hồ sơ tuyển sinh trực tuyến do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lí trên hệ thống toàn bộ các trường Đại học tổ chức tuyển sinh năm học 2022-2023 là một đột phá mới, vừa phù hợp vừa đỡ tốn thời gian, chi phí cho cả thí sinh và thầy cô giáo,…
Với những ưu thế như trên, bên cạnh việc tích cực triển khai, áp dụng và lan tỏa chuyển đổi số trong giáo dục. Việt Nam cũng hướng đến chuyển đổi số để đạt đến cuộc cách mạng công nghệ 4.0 với các nhóm cốt lõi bao gồm: Công nghệ số (AI, big data, Iot, blockchain, Cloud, Robot tự hành, mô phỏng, tính toán lượng tử); Vật lý và vật liệu mới (In 3D, quang điện, nano, xe tự lái, xe điện, thiết bị bay); Sinh học (Chip sinh học, tế bào gốc, cảm biến sinh học, công nghệ thần kinh, y học cá thể); Năng lượng và môi trường (Vệ tinh nhỏ, công nghệ tuabin gió, lưới điện thông minh, công nghệ ắc qui, năng lượng đại dương). Nhưng với trình độ dân trí chưa cao, cơ sở vật chất nghèo nàn, nguồn nhân lực yếu kém như hiện nay đã tạo nên những khó khăn và thách thức tiến hành chuyển đổi số trong giáo dục hiện nay.
Khó khăn và thách thức khi chuyển đổi số trong giáo dục hiện nay
Cuộc cách mạng kỹ thuật số đã chạm đến gần như mọi khía cạnh trong cuộc sống của chúng ta. Hơn 3,5 tỷ người có quyền truy cập Internet và hơn 5 tỷ người được ước tính có một số loại thiết bị di động, với một nửa trong số đó là điện thoại thông minh. Mức độ kết nối này đã ảnh hưởng đến cách mọi người tương tác với những người khác, nhận tin tức của họ và nhìn thế giới xung quanh họ. Nền tảng cơ bản của chuyển đổi số trong giáo dục là dựa vào cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu số chuyên ngành, đường lối, chủ trương chính sách và đội ngũ lãnh đạo, cán bộ viên chức, giảng viên, giáo viên, người học... Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ như hiện nay, cùng với việc ngành giáo dục đang đẩy mạnh áp dụng công nghệ chuyển đổi số trong giảng dạy thì mọi khó khăn sẽ sớm được giải quyết. Tuy nhiên, điều khó khăn nhất hiện tại là thay đổi tư duy và thói quen tại các cơ sở đào tạo, cần đào tạo nguồn nhân lực số phù hợp và phát triển kho học liệu tương xứng,... Theo thống kê, hiện nay cả nước có gần 1,4 triệu giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, do đó, để thực hiện được chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo là một thách thức khổng lồ.
Nếu như trước đây, tài liệu bồi dưỡng được in trên giấy, gây khó khăn cho việc nghiên cứu thì nay các tài liệu, học liệu bồi dưỡng này được số hóa và lưu trữ trên các không gian ảo. Hệ thống này sẽ được truy cập không giới hạn các khoá học. Tài liệu hướng dẫn mọi lúc, mọi nơi dành cho tất cả giáo viên. Các lớp bồi dưỡng, tập huấn giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục phổ thông cốt cán được tổ chức theo phương thức trực tuyến kết hợp với trực tiếp thông qua lớp học ảo. 5000 bài giảng điện tử, 31000 câu hỏi trắc nghiệm và khoảng 7000 bài luận văn đã xuất hiện trên mạng Internet, ghi dấu thời đại dần lên ngôi của chuyển đổi số, số hóa trong lĩnh vực này. Tùy thuộc vào cơ cấu và quy mô của tổ chức giáo dục mà những phương pháp ứng dụng công nghệ vào dạy và học cũng có sự khác biệt, nhưng nhìn tổng thể sẽ có các lớp học trực tuyến E-Learning, các dự án, ứng dụng thực tế ảo, các lớp học về STEAM, STEM, lập trình hoặc ứng dụng mạnh công nghệ vào công tác quản lý.
Song song với đó, Tin học cũng sẽ là môn học bắt buộc đối với các học sinh từ lớp 3 trở lên và các cơ sở dạy học sẽ tự mình kết nối, triển khai hợp tác với những nhà cung cấp chuyên nghiệp trong lĩnh vực chuyển đổi số nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục trực tuyến đạt chuẩn đầu ra, không tạo nên sự cách biệt quá lớn giữa phương pháp dạy – học online và offline. Không ai có thể phủ nhận được những điểm tích cực mà chuyển đổi số trong giáo dục có thể mang lại, đặc biệt là khi công nghệ hiện đại lên ngôi trong thời kỳ 4.0 và nhu cầu học, tiếp nạp, kết nối tri thức giữa người này với người kia, ở quốc gia này đến quốc gia kia tăng cao.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này có thật sự hiệu quả và triệt để hay không còn là vấn đề đáng bàn, khi Việt Nam vẫn chưa hẳn là một quốc gia phát triển cao về yếu tố kinh tế và hệ thống nhân lực cứng tay, lành nghề trong lĩnh vực công nghệ. Cần thận trọng hơn trong việc chuyển đổi số trong giáo dục, bởi vì trên thực tế hiện nay xu hướng ngày càng phát triển hơn nữa nhất là công nghệ. Để nhanh chóng phát triển chúng ta phải áp dụng công nghệ số để nâng cao những kỹ năng. Nhưng cơ sở vật chất, công cụ còn nhiều thiếu sót và lạc hậu vẫn còn chưa đáp ứng được sự chuyển mình trong giáo dục.
Kết quả khảo sát cho thấy chuyển đổi số mang lại nhiều cơ hội và được hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp đánh giá hướng tích cực (90-95% ở mức trung bình và ở mức cao) trên cả 5 tiêu chí: Về tiết kiệm thời gian; Mang lại hiệu suất cao hơn cho toàn bộ quy trình; Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ; Quản lý nguồn nhân lực tốt hơn, cần ít nhân lực hơn nhưng vẫn xử lý công việc tốt hơn; Giúp người lao động thực hiện các nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi độ chính xác cao. Đặc biệt, chuyển đổi số giúp mang lại hiệu suất và chất lượng cao hơn (với gần 60% số trả lời ở mức cao), mang lại cơ hội cho tổ chức/doanh nghiệp trong quản lý nguồn nhân lực tốt hơn, mang lại nhiều lợi ích cho người lao động, 22,9% cho rằng nhận được nhiều cơ hội việc làm hơn; 30,2% cho rằng được làm công việc thú vị hơn và 22,9% cho rằng, sẽ làm được nhiều việc hơn, nhưng vẫn có 19,8% cho rằng công việc sẽ không có gì thay đổi. Cùng với đó, có đến 92,2% người lao động có cái nhìn lạc quan về chuyển đổi số, trong đó khoảng trên 1/5 số người lao động rất lạc quan về lợi ích mà chuyển đổi số mang lại. Chỉ có khoảng 6,3% tỏ ra lo lắng và không có ai sợ hãi với chuyển đổi số. Mặc dù vậy, bên cạnh các cơ hội và lợi ích mang lại cho tổ chức, doanh nghiệp, chuyển đổi số cũng tạo ra các rủi ro đối với sản xuất kinh doanh. Khoảng 11% tổ chức, doanh nghiệp nhận định có chịu ảnh hưởng tiêu cực rủi ro kết quả công việc do chuyển đổi số, trong đó, cao nhất là lĩnh vực y tế với 18% và thấp nhất là lĩnh vực giáo dục, chiếm khoảng trên 6%. Hầu hết các tổ chức, doanh nghiệp đều đã triển khai ứng dụng số hóa ở các mức độ khác nhau, nhưng phần nhiều mới đang ở mức số hóa dữ liệu, số hóa quy trình (chiếm tới trên dưới 90%). Bên cạnh đó, chuyển đổi số. Đồng thời, có khá nhiều khó khăn, cản trở tổ chức, doanh nghiệp thúc đẩy chuyển đổi số, trong số các khó khăn có mức độ lớn, khó khăn lớn nhất thuộc về chưa tìm được bộ công cụ quản trị nhân lực phù hợp và thiếu lao động có kỹ năng; Tiếp theo là giải quyết vấn đề tâm lý khi có tới trên 1/5 số người lao động chưa vượt qua được rào cản tâm lý ngại thay đổi, bằng lòng với hiện tại; Bộ máy và công nghệ chưa phù hợp với chuyển đổi số; Trình độ của người lao động chưa theo kịp và khó khăn trong xử lý lao động dôi dư…
Chính vì vậy, quá trình chuyển đổi số trong giáo dục tuy tất yếu nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn như sau:
Thiếu hụt và hạn chế về nhân lực
Để thật sự bảo đảm chất lượng của chuyển đổi số trong giáo dục, chắc chắn cơ sở đào tạo cần phải sở hữu cho mình một đội ngũ nhân sự hiểu biết về công nghệ, có kiến thức chuyên sâu trong các ứng dụng phần mềm nói riêng và tổng thể quy trình số hóa nói chung. Tuy nhiên, đây không phải chuyện dễ dàng. Các hệ thống giáo dục hiện nay tại nước ta hầu như chưa thể sở hữu một đội ngũ quản trị riêng về tình hình áp dụng công nghệ vào giảng dạy, học tập trực tuyến. Nguồn lực chưa đủ mạnh, chưa đủ nhiều, đi kèm với khả năng tài chính còn nhiều hạn chế chính là những lỗ hổng khiến việc chuyển đổi số một cách chắc chắn, trọn vẹn trong ngành giáo dục và đào tạo vẫn gặp nhiều gian nan, khó khăn xuyên suốt quá trình thực hiện. Các ý kiến xung quanh hội thảo” Chuyển đổi số trong ngành giáo dục” được cho là khó khăn nhất trong quá trình chuyển đổi này chính là vấn đề con người. “Con người phải thay đổi để thích nghi thì chuyển đổi số mới thành công. Bởi lẽ, giờ đây học sinh, sinh viên có quá nhiều kênh thông tin, tài liệu. Người thầy cần phải thay đổi từ việc truyền thụ kiến thức sang biết chọn lọc và tập hợp kiến thức để xây dựng được chương trình, giáo án, đặc biệt phải làm sao cá thể hóa tới từng học sinh” (trích phát biểu của bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn)
Hiện nay việc giáo dục công nghệ ở nước ta còn quá chậm. Một trong những nguyên do dẫn tới điều này là do đội ngũ giáo viên. Đang có một khoảng cách rất lớn giữa thế hệ thầy và thế hệ trò. Những người hiểu biết về công nghệ rất kém, rất yếu lại lên lớp giảng cho học sinh rất giỏi về công nghệ, đây chính là trở ngại lớn nhất trong việc ứng dụng công nghệ trong giáo dục. Vì vậy, đi một cách chắc chắn thì phải có trang bị kỹ năng về chuyển đổi số một cách căn cơ theo các cấp bậc học. Cần phải phổ biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về tư tưởng, quyết tâm thực hiện chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Phổ biến đến từng địa phương, nhà trường, giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý. Cùng nhau xây dựng văn hóa số trong giáo dục. Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên kiến thức, kỹ năng công nghệ để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Hình 1. Thách thức và mục tiêu chuyển đổi số trong giáo dục
Khó khăn trong tiếp nhận thông tin ở vùng sâu, vùng xa
Ở những khu vực vùng sâu vùng xa, việc đi học trực tiếp tại trường đã khó khăn thì việc học trực tuyến với các thiết bị công nghệ hiện đại lại càng khó hơn. Người dân không thể đảm bảo chu cấp đầy đủ phương tiện dạy và học từ xa cho con trẻ với tình hình kinh tế khó khăn, mạng Internet cùng đường truyền kém. Hơn nữa, kiến thức thực tiễn về các phương pháp 4.0 hiện đại trong giáo dục cũng không dễ để phổ cập toàn diện với họ. Với tình trạng này, mục tiêu phủ sóng chuyển đổi số trong giáo dục đến mọi miền Tổ quốc sẽ là một bài toán nan giải đối với các chuyên gia đào tạo, và sẽ không thể nhanh chóng giải quyết chỉ trong một sớm, một chiều.
Kho tài liệu số chưa nhiều, mức độ hoàn thiện chưa cao
Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục còn nhiều thiếu hụt về học liệu, các tài liệu, học tập điện tử chuyên dùng ở chuyển đổi số trong giáo dục tuy đã có số lượng tương đối, tuy nhiên vẫn chưa thể bao quát trọn vẹn lượng kiến thức khổng lồ ở mọi lĩnh vực, mọi môn học, mọi cấp bậc do phần đa giáo viên vẫn quen với việc soạn giáo án theo hình thức truyền thống. Dữ liệu lớn cung cấp cho họ cơ hội tiếp cận thông tin này xa hơn và sử dụng nó để hiểu rõ hơn về xu hướng và sự thành công của sinh viên. Dữ liệu lớn đề cập đến khả năng công nghệ ngày càng tăng để theo dõi lượng lớn dữ liệu và giải thích nó với sự hỗ trợ của các thuật toán để tìm ra các mẫu và thông tin hữu ích. Khó khăn này sẽ ngăn cản lượng kiến thức tiếp thu tối đa từ học viên, khiến lộ trình học tập trở nên thiếu sót, không có đầy đủ tài nguyên để tham khảo và nâng cấp bản thân trọn vẹn. Từ đó, nhiều người trở nên e dè và không muốn thử phương pháp giáo dục này ở thời điểm hiện tại.
Chưa có quy định cụ thể về quyền sở hữu trí tuệ
Một lý do lớn khiến kho tài liệu học trực tuyến chưa nhiều và được đa dạng toàn diện là vì chưa có một điều luật cụ thể nào trong hệ thống Luật pháp quy định về quyền sở hữu trí tuệ và bảo mật an ninh thông tin. Những tài nguyên, kiến thức mà giáo viên, giảng viên dùng để truyền tải cho học viên rất dễ bị đánh cắp khi đăng tải lên các nền tảng số. Quy định, điều lệ phạt những “kẻ trộm online” như vậy cũng chưa rõ ràng, khiến các thầy cô hạn chế đăng tải chất xám mình bỏ ra theo hình thức trực tuyến. Chưa hết, do vẫn đang trong tiến trình chuyển đổi số nên hệ thống kiểm tra, đánh giá chất lượng kiến thức, chất lượng bài giảng một cách tự động vẫn chưa được áp dụng. Nói cách khác, hiện nay, nền giáo dục nước nhà vẫn chỉ có thể tiến hành song song giáo dục trực tuyến và trực tiếp để đảm bảo vừa truyền tải đủ nội dung học thuật cho học viên, vừa thuận tiện quy trình tiếp nhận, giảng dạy kiến thức.
Hạ tầng công nghệ
Cùng với sự phát triển nhanh trong chuyển động số thì đòi hỏi cùng đó là cơ sở hạ tầng, các thiết bị cho cả người học và người trực tiếp giảng dạy, cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý. Để toàn bộ hoạt động giáo dục và quản lý được vận hành tốt phải có thiết bị phần cứng, các ứng dụng, phần mềm giáo dục, các nền tảng (platform)…Hơn nữa, chuyển đổi số trong giáo dục yêu cầu các kết nối như: những chương trình, phần mềm riêng lẻ,… phải tương thích với nhau, tích hợp và ‘có thể tiếp cận được’ (accessible) trên cùng một nền tảng. Từ đó, cho phép các hoạt động giảng dạy, quản lý, học tập, đánh giá, kiểm tra, quản lý… tương tác giữa người học với giáo viên và nhà trường. Internet là yếu tố quyết định để quá trình này hoạt động.
Chuyển đổi số trong giáo dục cần phải đồng hành phối hợp với các ngành khác để mang lại hiệu quả tốt nhất, đặc biệt là ngành viễn thông. Đây có thể là thách thức bởi giáo dục vốn quen hoạt động và vận hành độc lập.
Tư duy và năng lực quản lý
Vẫn còn thiếu sự hướng dẫn và chiến lược, đây cũng chính là một bức tường cản trở lớn nhất trong việc phát triển ngành giáo dục theo hướng công nghệ số đó chính là cần phải biết thay đổi từ đâu và thay đổi sao cho hợp lý nhất. Để vận hành hệ thống quản lý giáo dục như vậy đòi hỏi ban lãnh đạo ngành giáo dục phải thay đổi tư duy, năng lực quản lý. Cần trang bị hiểu biết, tư duy số, làm chủ được công nghệ và hiểu rõ giới hạn của công nghệ. Đặc biệt, chuyển đổi số thường phụ thuộc rất lớn vào bối cảnh, có thể nó là cơ hội cho đối tượng, địa phương hoặc quốc gia này nhưng lại là thách thức đối với các đối tượng, địa phương hoặc quốc gia khác. Do đó, chuyển đổi số trong giáo dục không có 1 công thức chung cụ thể, đòi hỏi lãnh đạo phải có tầm nhìn chiến lược, đưa ra các giải pháp tuy nhiên họ không có nhiều sự tham khảo hoặc kinh nghiệm từ các ngành khác hay quốc gia khác.
Kỹ năng sử dụng công nghệ
Như chúng ta cũng biết kỹ năng là một phần rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự đổi mới trong tổ chức hiện nay được phổ biến trên nhiều quốc gia. Với tình trạng vẫn còn thiếu hụt nhân viên có kỹ năng về công nghệ số vẫn còn tồn tại. Chuyển đổi số trong giáo dục không thể thành công nếu người trực tiếp quản lý không có đủ kỹ năng sử dụng công nghệ. Giáo viên cần phải có những kỹ năng mới để tổ chức hoạt động giảng dạy, “giữ” được học sinh trong “lớp học”, duy trì được sự chú tâm của học sinh trong toàn bộ quá trình học tập. Họ chính là yếu tố quyết định đến sự thành công trong đào tạo trực tuyến và quá trình chuyển động số.
Sự sẵn sàng tiếp nhận của người học
Một khảo sát về “mức độ sẵn sàng học tập trực tuyến” năm học 2019-2020 – khi dịch Covid 19 xảy ra. Kết quả cho thấy mức độ sẵn sàng học trực tuyến của người học trực tuyến thấp hơn rất nhiều so với giáo viên. Có đến gần 80% sinh viên khảo sát ở nhiều ngành, nhiều tỉnh khác nhau chưa sẵn sàng học tập trực tuyến bởi nhiều lý do. Bên cạnh những yếu tố như: thiết bị, cơ sở hạ tầng viễn thông… còn có yếu tố kỹ thuật giảng dạy của giảng viên còn chưa đủ sức thuyết phục. Người học cần được trang bị đầy đủ cả về tâm thế và môi trường cũng như phương pháp học tập trực tuyến để đạt được hiệu quả.
Bất bình đẳng trong giáo dục
Chuyển đổi số trong giáo dục có thể tạo nên bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền và học sinh có điều kiện kinh tế xã hội (SES) khác nhau. Những học sinh ở miền núi, nông thôn thường không được tiếp cận hạ tầng viễn thông tốt, các nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình học trực tuyến. Trường hợp học sinh bị khuyết tật, khiếm thị, khiếm thính… làm cản trở thao tác học tập, điều khiển cũng có là đối tượng chịu tác động của bất bình đẳng số. Các vấn đề như: sách vở, tài liệu, ngôn ngữ, sử dụng thiết bị, thao tác điều khiển, giao tiếp với thiết bị, phần mềm, giáo viên… gặp nhiều khó khăn. Nhóm đối tượng này có thể phải dùng ngôn ngữ riêng, ký hiệu riêng… sẽ có nhiều hạn chế và không được ưu tiên, gây nhiều bất lợi, thiệt thòi. Chuyển đổi số trong giáo dục không chỉ là đổi mới phương thức cập nhật thiết bị, công nghệ mà nó còn là vấn đề văn hóa và con người. Vì vậy, để đạt được mục tiêu tạo nên một quy trình giáo dục hấp dẫn, hiệu quả, cả giáo viên và học sinh đều phải cải thiện kỹ năng của mình và cùng phối hợp vượt qua khó khăn, biến “nguy” thành “cơ” và có được những kết quả tốt, cần một hệ thống giải pháp đồng bộ và sự thay đổi tư duy của các cấp lãnh đạo, quản lý giáo dục đến từng thầy giáo, cô giáo, giảng viên và học sinh, sinh viên.
Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành giáo dục và đào tạo
Đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, tuy nhiên chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo vẫn là một quy trình mang tính bắt buộc nếu không muốn biến mình trở thành kẻ lạc hậu giữa sự xoay vần công nghệ liên tục của toàn thế giới. Vì vậy, việc áp dụng dần dần các giải pháp hữu ích để khắc phục các khó khăn, đồng thời có những bước tiến chắc chắn hơn và lan tỏa rộng hơn giá trị chuyển đổi số trong đào tạo kiến thức là cực kỳ cần thiết. Chậm mà chắc, có còn hơn không, đây chính là những phương thức cần thiết để nền giáo dục Việt Nam khẳng định chất lượng mình mang lại trên tiến trình số hóa hình thức dạy và học, bắt kịp với thời thế.
Tích cực tuyên truyền sức mạnh của chuyển đổi số trong giáo dục
Phổ biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về tư tưởng, quyết tâm thực hiện chuyển đổi số trong ngành giáo dục. Phổ biến đến từng địa phương, nhà trường, giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý. Cùng nhau xây dựng văn hóa số trong giáo dục. Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên kiến thức, kỹ năng công nghệ để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Các buổi đào tạo nhằm mục tiêu giới thiệu kỹ lưỡng khái niệm, thông tin, sự cần thiết về chuyển đổi số là yếu tố cực kỳ quan trọng ở những bước đầu áp dụng hình thức học tập này. Không chỉ học sinh, sinh viên, học viên mà cả các thầy cô giáo, các giảng viên cũng cần được cung cấp cụ thể, đầy đủ những kiến thức này nhằm có cho mình cái nhìn đa chiều, khái quát nhất. Hiểu điều mình đang làm sẽ tạo cho họ tâm lý thoải mái để học hỏi và thực hiện lâu dài.
Nhanh chóng hoàn thành thi công, sửa chữa, xây dựng phương pháp kết nối mạng Internet đến người dân vùng sâu, vùng xa
Không phải điều dễ dàng, tuy nhiên nếu muốn phủ sóng toàn quốc phương pháp học trực tuyến, cần có một kế hoạch hoàn chỉnh để sửa chữa, kết nối đường truyền mạng ở những khu vực vùng sâu, vùng xa. Đây cũng là động lực để người dân hiểu hơn về hình thức học này và “dám” đầu tư thiết bị học cho con cái họ.
Nâng cao tay nghề nhân sự, dùng nhiều hình thức để thu hút nhân tài
Là cả một quá trình dài, việc đẩy mạnh các chương trình đào tạo nhân lực trong ngành công nghệ, đồng thời có chiến dịch, phương pháp thu hút người tài, nhân sự cứng tay nghề và thực sự hiểu về chuyển đổi số trong giáo dục chính là chìa khóa tiên quyết quyết định thành công của hình thức đào tạo này.
Hoàn thiện phần học liệu, kiến thức giảng dạy
Các nguồn học liệu được chia sẻ trên mạng nên được cơ sở giáo dục kiểm tra, đảm bảo chắc chắn về sự đầy đủ của từng môn học, từng bậc lớp từ thấp đến cao cũng như tính chính xác. Điều này giúp học viên có đủ tâm thế và đủ kiến thức để tiếp nhận xuyên suốt khóa học. Hoàn thiện học liệu là bước quan trọng để phát triển chuyển đổi số trong giáo dục
Thúc đẩy phát triển học liệu số: Thực hiện ở tất cả cấp học, ngành học, môn học gắn với việc thẩm định nội dung, chia sẻ học liệu giữa các địa phương.
Ban hành chính thức các yếu tố pháp lý liên quan đến bảo mật thông tin
Các điều luật liên quan đến bảo mật thông tin, an ninh học liệu, đánh giá chất lượng lớp học tự động nên nhanh chóng được bổ sung và ban hành chính thức, tạo tâm lý an toàn, tin tưởng và sẵn sàng sử dụng các nền tảng số để dạy-học-chia sẻ kiến thức nơi học viên và giảng viên.
Áp dụng các phần mềm tiên tiến vào chuyển đổi số trong giáo dục
Phức tạp, nhiều chi tiết, nhiều thứ phải học chính là những cản trở đầu tiên khiến thầy cô và học viên cảm thấy ngại khi phải áp dụng chuyển đổi số trong giáo dục. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các phần mềm hỗ trợ chính là giải pháp vàng hóa giải mọi nỗi lo kể trên. Điển hình như phần mềm WEONE giúp tối ưu trọn vẹn tất cả các bước quy trình áp dụng công nghệ vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng hơn bao giờ hết. Với 4 phân hệ chính: Quản trị hệ thống, Quản lý quy trình thủ tục, Quản lý công việc và Quản lý kho tài liệu, WEONE sẽ giúp người dạy – người học nhanh chóng thực hiện, hoàn thành mọi thủ tục trong suốt quá trình truyền tải – tiếp nhận tri thức, tài liệu, học liệu. Không còn quá nhiều khó khăn hay rào cản cho cả giáo viên và học sinh trên bước đường chuyển đổi số giáo dục. Trước hết, tận dụng hiệu quả của phân hệ Quản lý kho tài liệu, người quản lý có thể dễ dàng hóa quy trình kiểm tra hồ sơ học viên, thông tin giáo viên. Thay vì ngập trong vô vàn tài liệu giấy tờ với hàng tá thông tin của học sinh từng cấp, của từng giáo viên, giảng viên được xếp ngẫu nhiên và không theo trình tự, phân hệ Quản lý kho tài liệu của WEONE cho phép tự động sắp xếp các luồng dữ liệu một cách hợp lý và theo lối trình bày logic nhất định, dựa theo cách thức và lựa chọn thiết lập của người giám sát. Nhờ đó, việc nắm bắt kịp thời tình hình nhân sự, người làm, người học để có cách điều phối, sắp xếp lớp học phù hợp là điều hoàn toàn khả thi.
Ngoài ra cần tăng cường các phương pháp công nghệ để nâng cao chất lượng, quản lý dữ liệu, thúc đẩy hình thức dạy – học trực tuyến qua mạng. Hoàn thiện cơ sở mạng đồng bộ để tạo cơ hội học tập bình đẳng giữa các vùng miền khác nhau, ưu tiên thuê dịch vụ, huy động nguồn lực cùng tham gia. Triển khai mạng xã hội giáo dục có kiểm soát, định hướng thống nhất, từ đó chia sẻ giữa cơ quan quản lý – nhà trường – gia đình. Phát triển các khóa học trực tuyến nhằm phục vụ công tác bồi dưỡng giáo viên, hỗ trợ dạy học tại những nơi khó khăn.
Hình 2. Chương trình chuyển đổi số tác động tốt đến ngành Giáo dục và Đạo tạo
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC SỐ
Công nghệ đang thay đổi và phát triển với những bước tiến nhảy vọt, tuy nhiên sự thay đổi thực sự không chỉ nằm ở phần công nghệ, mà còn tập trung chủ yếu đến từ sự thay đổi của con người. Lực lượng lao động của tương lai sẽ đa dạng hơn bao giờ hết, 75% nhân viên đó sẽ là thế hệ millennials. Vì vậy, định hướng chỉ tiêu cần đạt của chính phủ đến năm 2025 với 70% số người dân trong độ tuổi lao động biết đến các loại hình dịch vụ công trực tuyến. 80% các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng được mạng lưới chuyển đổi số đến cấp xã cho ít nhất 60% số xã, phường trên địa bàn. 100% cán bộ lãnh đạo, 60% cán bộ công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước hàng năm được tham gia tập huấn, đào tạo. 100% cán bộ chuyên trách chuyển đổi số, công nghệ thông tin được đào tạo về công nghệ số và được đánh giá trực tuyến kết quả đào tạo qua hệ thống đánh giá, sát hạch chuẩn kỹ năng số Quốc gia. 100% các trường “Đại học số” hoàn thiện được mô hình tổ chức số, quản trị số, hoạt động số, chuẩn hóa dữ liệu số, kho học liệu số mở và được đầu tư trang bị đồng bộ hạ tầng số, nền tảng công nghệ số, trang thiết bị học và thực hành sẵn sàng tuyển sinh và đào tạo nguồn nhân lực chuyển đổi số,…là một thách thức đối với việc phát triển nguồn nhân lực số.
Vai trò của nguồn nhân lực trong công cuộc chuyển đổi số
Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đã nhận thấy tác động tích cực từ chuyển đổi số, đặc biệt là nguồn nhân lực số. Nhiều công việc sẽ được tự động hóa với các robot tiên tiến và trí tuệ nhân tạo sẽ thúc đẩy những thay đổi lớn nhằm nâng cao năng suất của nhân viên và hiệu quả kinh doanh. Công việc và quy trình làm việc sẽ được thiết lập lại, nhân viên sẽ được giải phóng để tập trung vào các nhiệm vụ mang lại giá trị lớn hơn, dữ liệu và phân tích về nguồn lực lao động sẽ giúp doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh doanh nhanh chóng, năng suất và hiệu quả.
Hình 3: Nguồn Bain research, World Economic Forum report
Theo nghiên cứu về “Xu hướng Nhân tài Toàn cầu năm 2021” của Mercer, tác động tài chính và gián đoạn cuộc sống công việc do đại dịch gây ra đã thúc đẩy các nhà tuyển dụng ở Đông Nam Á (Indonesia, Thái Lan, Malaysia và Philippines) tập trung vào việc xác định nhu cầu nguồn nhân lực trong tương lai bằng nhiều cách đồng thời như tái cơ cấu (48%) và tích cực đào tạo lại nhân lực vào năm 2021 (39%) để sẵn sàng cho việc kinh doanh. Thống kế cho thấy thế giới có 32% doanh nghiệp ưu tiên tái tạo lại hoạt động kinh doanh bền vững, tức là trách nhiệm của tổ chức đối với cộng đồng, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, nhân viên và môi trường cũng được tối đa hóa, tại Việt Nam có tới hơn 80% lãnh đạo doanh nghiệp muốn chuyển đổi số và 65% doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư mạnh vào chuyển đổi số, tuy nhiên lại có đến 53,7% doanh nghiệp gặp vấn đề về các giải pháp làm việc nội bộ.
Hình 4: Xu hướng Nhân tài toàn cầu năm 2021
Tại Việt Nam, chính phủ đã đưa ra các nghị định và chủ trương về chuyển đổi số với mục tiêu kinh tế số có thể chiếm 20% tỉ trọng GDP quốc gia vào năm 2025, phấn đấu 30% vào năm 2030. Một trong các mục tiêu lớn đến năm 2025 là 100% doanh nghiệp được nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Có thể nói, đây là giai đoạn khẩn trươ