Trong giai đoạn 2016-2020, kinh tế của cả nước có nhiều chuyển biến, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Cơ cấu các ngành kinh tế của chuyển dịch tích cực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm, tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên. Công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển nhanh; công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng của sản phẩm.
Cùng với đó, những năm qua, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có chuyển biến tích cực, trong đó có một số sản phẩm chủ yếu tăng trưởng mạnh như ô tô, camera module, kính nổi; các làng nghề tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển ổn định, doanh thu hằng năm đạt trên 1.000 tỷ đồng, góp phần không nhỏ vào thu NSNN trên địa bàn tỉnh. Trong giai đoạn 2016-2020, thu nội địa trên địa bàn tỉnh đạt 67.499 tỷ đồng, trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất trong thu nội địa là thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh (chiếm 51,9%) với số thu là 26.515 tỷ đồng. Nguồn thu này chủ yếu đến từ các doanh nghiệp trọng điểm khu vực ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng.
Tiếp nối những kết quả đạt được của giai đoạn trước, cùng với việc xác định những thuận lợi, khó khăn về tình hình thế giới và trong nước cũng như những tiềm năng, thế mạnh của tỉnh trong những năm tiếp theo, tại Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025 có đề ra nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu về phát triển kinh tế như sau: “…Phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại trên cơ sở cơ cấu lại ngành công nghiệp với yêu cầu công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, tăng giá trị sản phẩm và đóng góp ngân sách lớn. Hoàn thiện hạ tầng, phát huy hiệu quả các khu công nghiệp. Khuyến khích, ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, phụ trợ, chế biến chế tạo. Duy trì ổn định sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ lực gắn với bảo vệ môi trường...”. Tại Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 11/10/2021 của ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc phát triển và quản lý khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, có mục tiêu cụ thể giai đoạn 2021-2025 như sau: “Đến năm 2025, giá trị đóng góp của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp chiếm khoảng 85% giá trị GRDP ngành công nghiệp. Thu ngân sách của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp chiếm khoảng 80% thu NSNN trên địa bàn tỉnh (không bao gồm tiền sử dụng đất). Xây dựng được ít nhất 02 khu nhà ở xã hội phục vụ công nhân lao động trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp”.
Những mục tiêu nêu trên đã thể hiện rõ tầm nhìn, khát vọng xây dựng và phát triển tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ mới. Trước những mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển công nghiệp trong những năm sắp tới, việc nghiên cứu chuyên đề “Cơ cấu thu ngân sách nhà nước về công nghiệp tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016-2020” mà trọng tâm là việc phân tích và đánh giá thực trạng cơ cấu thu NSNN từ các doanh nghiệp trọng điểm có vốn đầu tư nước ngoài và trong khu vực ngoài quốc doanh hoạt động trong ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay để nhìn nhận một cách khách quan về những kết quả đã đạt được, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới nhằm đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo hướng đồng bộ, bền vững và trở thành ngành kinh tế trọng điểm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra.
Mục tiêu tổng quát: Mở rộng quy mô thu ngân sách, bảo đảm tỷ trọng thu nội địa ngày càng cao, đặc biệt là thu từ thuế, phí. Xây dựng cơ cấu thu NSNN hợp lý, ngày càng bền vững. Thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế và đóng góp số thu ngày càng cao cho NSNN.
Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích thực trạng thu NSNN từ khu vực công nghiệp tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016-2020;
- Định hướng thu NSNN về công nghiệp đến năm 2030 và các giải pháp thực hiện.
1.1. Thực trạng cơ cấu thu, chi NSNN tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016-2020.
a) Thực trạng cơ cấu thu ngân sách
Thứ nhất, quy mô thu ngân sách ngày càng mở rộng, tăng cùng với sự phát triển kinh tế của tỉnh, tổng thu NSNN đạt từ 23% GRDP năm 2016 lên mức 50% GRDP năm 2020, góp phần quan trọng trong việc đáp ứng các nhiệm vụ chi ngân sách cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tổng thu NSNN trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020 đạt 67.449 tỷ đồng, trong đó năm 2016 đạt 7.227,7 tỷ đồng, năm 2017 đạt 9.092,2 tỷ đồng, năm 2018 đạt 13.164,8 tỷ đồng, năm 2019 đạt 16.632,1 tỷ đồng, năm 2020 đạt 21.332 tỷ đồng (gấp 3,55 lần so với mục tiêu Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI).
Thứ hai, cơ cấu thu NSNN đảm bảo nguyên tắc căn bản về cân đối ngân sách, thu thường xuyên lớn hơn chi thường xuyên và góp phần tích lũy cho chi đầu tư phát triển. Tổng thu nội địa từ thuế, phí, lệ phí và thu khác giai đoạn 2016-2020 đạt 35.572,2 tỷ đồng, trong đó chi cân đối chi thường xuyên đạt 28.366,2 tỷ đồng.
Thứ ba, cơ cấu thu NSNN đã có những chuyển biến tích cực theo hướng bền vững hơn với tỷ trọng của thu nội địa chiếm chủ yếu. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN giai đoạn 2016-2020 trung bình đạt 75,2%, tỷ trọng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2016-2020 trung bình đạt 24,8% (Biểu đồ 1). Có được kết quả trên do trong giai đoạn 2016-2020 tỉnh ban hành và chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chính sách, nghị quyết bằng nhiều giải pháp, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho sản xuất - kinh doanh phát triển thuận lợi. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trên cơ sở chính sách của trung ương, đã ban hành các Nghị quyết, chương trình hành động, quyết định, kế hoạch để tổ chức triển khai thực hiện.
Biểu đồ 1. Cơ cấu thu ngân sách nhà nước tại địa phương
Thứ tư, các khoản thu nội địa, nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và thu khác chiếm tỷ trọng lớn (bình quân 70,2%); tổng thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí và thu khác (không bao gồm thu xuất nhập khẩu) đạt trung bình 19,2% GRDP trong cả giai đoạn và có xu hướng tăng trong những năm gần đây, đặc biệt năm 2020 đạt 28% GRDP. Thu tiền sử dụng đất chiếm tỷ trọng bình quân cả giai đoạn là 29,5% số thu nội địa; thu xổ số kiến thiết chiếm tỷ trọng nhỏ, bình quân cả giai đoạn là 0,72% số thu nội địa. Đạt được kết quả này do trong quá trình thực hiện đã tập trung chỉ đạo rà soát, đánh giá đúng nguồn thu, tăng cường quản lý, chống thất thu, thực hiện chính sách tạo môi trường đầu tư, kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, còn đẩy mạnh việc quản lý, khai thác và sử dụng tài sản công, đặc biệt khai thác nguồn thu từ đất, các giải pháp về tăng cường chỉ đạo triển khai thực hiện giải pháp về lĩnh vực thuế, phí, hải quan, bảo hiểm xã hội (Nghị quyết số 03-NQ/BCS ngày 08/01/2018 của Ban Cán sự UBND tỉnh, Kế hoạch số 02/KH-UBND ngày 11/01/2018 thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/BCSĐ ngày 08/01/2018 của Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh, …)
Thứ năm, trong cơ cấu thu NSNN theo các thành phần kinh tế, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và thu từ doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm, trong khi thu từ khu vực ngoài quốc doanh có xu hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, trở thành khu vực có tỷ trọng cao nhất. Tỷ trọng thu từ DNNN do trung ương quản lý bình quân cả giai đoạn là 2,4% trong tổng thu nội địa, thu từ DNNN do địa phương quản lý bình quân cả giai đoạn là 0,3% trong tổng thu nội địa, thu từ khu vực đầu tư nước ngoài bình quân cả giai đoạn là 1,4% trong tổng thu nội địa, thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh bình quân cả giai đoạn là 49,9% trong thu nội địa, các khoản thu khác bình quân cả giai đoạn là 45,9% trong tổng thu nội địa.
- Đối với thu từ khu vực DNNN: Tỷ trọng thu từ khu vực DNNN trong thu nội địa ngày càng giảm. Tỷ trọng thu từ DNNN do trung ương quản lý giảm từ 4% năm 2016 xuống còn 1% năm 2020, tỷ trọng thu từ DNNN do địa phương quản lý giảm từ 0,5% năm 2016 xuống còn 0,2% năm 2020. Nguồn thu từ DNNN chiếm tỷ trọng không cao do số lượng các DNNN giảm do thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, nên tốc độ tăng thu từ DNNN thấp hơn so với tốc độ tăng thu NSNN nói chung.
- Đối với thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng thu khá nhanh, nhưng tỷ trọng không cao (Tỷ trọng bình quân cả giai đoạn 1,4% trong thu nội địa). Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 63 tỷ đồng trong năm 2016 lên 200 tỷ đồng trong năm 2020, tăng 3,17 lần. Nguồn thu từ khu vực này có tốc độ tăng thu khá nhanh do trong thời gian gần đây áp dụng việc tăng cường kiểm tra, thanh tra thuế chống chuyển giá. Tuy nhiên, nếu so với tiềm năng thì thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn khiêm tốn, cần có biện pháp để tăng thu cho NSNN.
Đối với thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh: Khu vực này ngày càng đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế và đóng góp số thu cho NSNN ngày càng cao. Trong giai đoạn 2016-2020, thu từ khu vực công thương nghiệp dịch vụ ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng từ 47,5% đến 64,2% tổng thu nội địa (Biểu đồ 2). Điều đó cho thấy hiệu quả của chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân đã đề ra trong Chương trình hành động số 16-CTr/TU ngày 28/8/2017 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Chương trình hành động số 17-CTr/TU ngày 28/8/2017 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ các chính sách ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất - kinh doanh nên số lượng các doanh nghiệp mới thành lập tăng lên, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng được cải thiện nên số thu NSNN từ khu vực này cũng tăng lên.
Nhận xét:
Biểu đồ trên cho ta thấy, tỷ trọng thu ngân sách khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng tang dần theo thời gian, tăng nhanh từ năm 2019 (53,7%), tăng cao năm 2020 (lên 64,2%). Tỷ trọng thu ngân sách từ các khoản thu khác có xu hướng giảm, giảm nhanh trong năm 2020 (từ 42,8% năm 2019 giảm xuốn 30,8% năm 2020).
Biểu đồ 3 cho thấy, nguồn thu cho NSNN tỉnh Ninh Bình từ Tập đoàn ô tô Thành Công trong tổng số nguồn thu nội địa tang dần qua các năm, năm 2020 chiếm 48%. Tỷ trọng thu nội địa của Tập đoàn không bao gồm tiền thu từ sử dụng đất và sổ số kiến thiết cũng tang dần qua từng năm, năm 2020 chiếm 75%. Tỷ trọng thu nội địa của Tập đoàn nếu tính riêng cho khu vực ngoài quốc doanh tăng dần qua từng năm, năm 2020 chiếm 91%.
Thứ sáu, cơ cấu các khoản thu giữa NSTW và NSĐP được phân định rành mạch theo quy định của Luật NSNN, tỷ trọng thu NSĐP hưởng theo phân cấp có xu hướng tăng. Tỷ trọng thu ngân sách địa phương được hưởng theo phân cấp bình quân cả giai đoạn 2016-2020 là 69,4% trong tổng thu NSĐP, riêng năm 2020 chiếm 83%; tỷ trọng thu NSTW bình quân cả giai đoạn là 30,6% trong tổng thu NSĐP. Điều này cho thấy thu NSĐP chiếm tỷ trọng lớn, ngày càng tăng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tại địa phương và khuyến khích địa phương tăng cường quản lý thu. Thu NSĐP có xu hướng tăng cả về quy mô và tỷ trọng, đảm bảo cho NSĐP chủ động về nguồn lực để thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng địa phương. Những kết quả đạt được trong những năm qua là hết sức cơ bản và có ý nghĩa to lớn, là tiền đề quan trọng cho những năm tiếp theo. Minh chứng cho điều đó, năm 2022 là năm đầu tiên Ninh Bình tự cân đối ngân sách, đây là thành quả bền bỉ của nhiều nhiệm kỳ Đảng bộ, chính quyền các cấp, các ngành, cộng động doanh nghiệp và người dân Ninh Bình.
b) Thực trạng cơ cấu chi ngân sách
Cùng với quá trình đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế đất nước, thời gian qua, công tác quản lý chi NSNN và cơ cấu chi ngân sách đã có những chuyển biến căn bản, hỗ trợ tích cực trong việc thực hiện các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Giai đoạn 2016-2020, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tỉnh tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế tài chính ngân sách theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí vào giá, phí dịch vụ sự nghiệp công; đổi mới kiểm soát chi, đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian xử lý; triển khai các kế hoạch tài chính 5 năm, kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm và các kế hoạch tài chính - ngân sách 3 năm nhằm từng bước kiểm soát nhu cầu chi trong phạm vi khả năng nguồn lực của tỉnh, thực hiện việc phân bổ ngân sách gắn với các ưu tiên trung hạn của nền kinh tế. Chủ trương, chính sách về cơ cấu chi NSNN có nhiều chuyển biến, về quy mô chi NSNN, cơ cấu chi, tỷ trọng chi NSNN đã thay đổi theo hướng tích cực, toàn diện, bền vững.
Thứ nhất, cơ cấu chi đã có sự chuyển dịch, bám sát chủ trương, định hướng tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, giảm tỷ trọng chi thường xuyên, nhưng vẫn đảm bảo tăng chi phát triển lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, bảo vệ môi trường; thực hiện cải cách tiền lương hằng năm tăng khoảng 7%/năm theo nghị quyết của Quốc hội; bảo đảm các nhiệm vụ chi quốc phòng - an ninh, các chính sách an sinh xã hội. Cụ thể:
Tổng chi NSĐP cả giai đoạn là 90.620 tỷ đồng, trong đó chi cân đối NSĐP là 50.981 tỷ đồng, bình quân chiếm 59,4% tổng chi NSĐP; chi từ nguồn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương là 4.421 tỷ đồng, bình quân chiếm 5% tổng chi NSĐP; chi chuyển nguồn sang năm sau là 35.217 tỷ đồng, bình quân chiếm 35,6% tổng chi NSĐP.
Trong chi cân đối ngân sách địa phương, tỷ trọng chi đầu tư phát triển giai đoạn 2016-2020 chiếm bình quân là 43% và ngày càng tăng, năm 2016 là 32%, năm 2017 là 42%, năm 2018 là 43%, năm 2019 là 47%, năm 2020 là 51% (Mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 07/NQ-HĐND ngày 15/3/2017 của HĐND tỉnh về kế hoạch tài chính giai đoạn 2017-2020 của tỉnh Ninh Bình là 15,7%). Chi đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng ngày càng tăng do các cấp, các ngành, địa phương trong tỉnh đã chủ động, quyết liệt thực hiện hiệu quả yêu cầu cơ cấu lại NSNN đã đề ra tại Chương trình hành động số 15-CTr/TU ngày 28/8/2017 thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững; Nghị quyết số 07/NQ-HĐND ngày 15/3/2017 của HĐND tỉnh về kế hoạch tài chính giai đoạn 2017-2020 của tỉnh Ninh Bình; Đồng thời thực hiện đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến đầu tư góp phần quan trọng cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi huy động các nguồn vốn của các thành phần, tổ chức kinh tế để phát triển kinh tế - xã hội. Chi đầu tư phát triển từ NSNN kết hợp với các nguồn lực xã hội hóa khác đã thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nhiều công trình xây dựng cơ bản được đầu tư từ nguồn NSNN đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả, mang lại diện mạo mới cho nhiều vùng trong tỉnh. Hiệu quả đầu tư và công tác quản lý đầu tư công được nâng lên; môi trường đầu tư được cải thiện đáng kể: Công tác quản lý, chấn chỉnh các hoạt động đầu tư ngay từ khâu lập, thẩm định, phê duyệt dự án đến triển khai; kịp thời ban hành các cơ chế, chính sách đầu tư đặc thù đối với một số chương trình, khu vực, lĩnh vực và dự án trọng điểm như: Cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính quyền; cơ chế đặc thù hỗ trợ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới các huyện Hoa Lư, Yên Khánh, Kim Sơn, Gia Viễn, Yên Mô; một số chính sách xây dựng nông thôn mới áp dụng cho 03 xã Ninh Tiến, Ninh Nhất, Ninh Phúc để các xã xây dựng đạt tiêu chí trở thành phường thuộc thành phố Ninh Bình; chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến, bền vững; chính sách đặc thù hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; cơ chế đặc thù, tạo nguồn đầu tư cho các dự án trọng điểm của tỉnh; chủ trương xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, giám định tư pháp,…
Đối với chi thường xuyên, những năm qua đã tiết kiệm, cắt giảm các nhiệm vụ chi không cần thiết để giảm mạnh chi thường xuyên trong tổng chi cân đối NSĐP. Tỷ trọng chi thường xuyên giảm dần (Năm 2016 là 68%, năm 2020 là 49%; mục tiêu kế hoạch đề ra tại Nghị quyết số 07/NQ-HĐND ngày 15/3/2017 của HĐND tỉnh về kế hoạch tài chính giai đoạn 2017-2020 của tỉnh Ninh Bình là dưới 77,3%); trong khi vẫn bảo đảm nguồn thực hiện cải cách tiền lương theo Nghị quyết của Quốc hội và các nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, chính sách an sinh xã hội. Những năm gần đây, dự toán chi thường xuyên giao cho các sở, ban, ngành, đơn vị cấp tỉnh và các địa phương đã được xây dựng trên cơ sở yêu cầu sắp xếp lại tổ chức bộ máy, giảm biên chế, đẩy mạnh tự chủ đơn vị sự nghiệp, qua đó cơ cấu lại nguồn để ưu tiên bố trí thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội. Nhìn chung, trong giai đoạn 2016-2020, chi thường xuyên đã cơ bản đáp ứng nhiệm vụ của các cấp, các ngành và các đơn vị, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách chế độ của trung ương và của tỉnh, tăng cường thực hiện các chính sách an sinh xã hội và đảm bảo nguồn ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, đột xuất phát sinh hàng năm. Việc kiểm soát chi đảm bảo vừa chặt chẽ đúng quy định, vừa thông thoáng, địa phương đã chủ động cân đối nguồn để thực hiện có hiệu quả các chính sách do trung ương và địa phương ban hành như chính sách phát triển du lịch; chương trình khuyến công, xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu; chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, hình thức sản xuất tiên tiến, bền vững; chương trình đào tạo cán bộ, công chức; chương trình khuyến khích tài năng; chính sách bảo hiểm y tế cho người thuộc hộ gia đình làm nghề nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình, chính sách mua thẻ bảo hiểm y tế cho người cao tuổi từ 75-79 tuổi; chính sách hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo đón Tết Nguyên đán; chính sách thực hiện đề án xuất khẩu lao động tỉnh Ninh Bình; kinh phí thực hiện nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền điện tử, phát triển các dịch vụ đô thị thông minh tỉnh Ninh Bình,...
Tóm lại, trong giai đoạn 2016-2020, quy mô chi NSNN được quản lý, điều hành trong phạm vi khả năng nguồn lực của tỉnh và các mục tiêu theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI; Chương trình hành động số 15-CTr/TU ngày 28/8/2017 thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững; Nghị quyết số 07/NQ-HĐND ngày 15/3/2017 của HĐND tỉnh về kế hoạch tài chính giai đoạn 2017-2020 của tỉnh Ninh Bình. Cơ cấu chi NSNN về cơ bản vượt mục tiêu đề ra, thực hiện hiệu quả, hiệu lực phân bổ và sử dụng ngân sách, hiệu quả chi tiêu công, nhất là chi đầu tư công, tập trung cho các mục tiêu ưu tiên của nền kinh tế. Chi ngân sách được cấu trúc lại một cách toàn diện, giữa chi đầu tư và chi thường xuyên, giữa các ngành, lĩnh vực và ngay trong nội bộ ngành, lĩnh vực. Quản lý chi NSNN được đổi mới đồng bộ gắn với đổi mới phương thức quản lý tài chính các lĩnh vực, phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tập trung ngân sách vào các nhiệm vụ thiết yếu; khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư vốn thực hiện các nhiệm vụ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công có khả năng xã hội hóa. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển của kinh tế đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, đòi hỏi cần phải tiếp tục tái cấu trúc chi NSNN hướng đến phát triển kinh tế nhanh, toàn diện và bền vững.
1.2. Thực trạng cơ cấu thu NSNN về công nghiệp
Từ thực trạng phân tích cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2016-2020 cho thấy, trong cơ cấu thu NSNN theo các thành phần kinh tế, thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng cao (chiếm 49,9% tổng thu nội địa), trở thành khu vực có tỷ trọng cao nhất. Trong đó đóng góp lớn cho NSNN là từ ngành kinh tế công nghiệp; trong cơ cấu ngành kinh tế, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng cao nhất 45,05% (năm 2015 chiếm 38,1%); giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 22,03%/năm (vượt mục tiêu Đại hội 16,0%/năm). Cơ cấu sản xuất trong nội bộ các ngành kinh tế nói chung và ngành công nghiệp nói riêng chuyển dịch theo hướng khai thác có hiệu quả tiền năng, thế mạnh của tỉnh gắn với thị trường. Tỉnh đã từng bước xác định, tập trung những ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và có ý nghĩa chiến lược đối với tăng trưởng nhanh bền vững như: ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô (tăng 56,5%/năm), camera module (tăng 23,6%/năm), kính nổi (tăng 38,7%/năm),… cho thấy cùng với chủ trương, chính sách của tỉnh tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chủ lực, trọng điểm trên địa bàn tỉnh, các doành nghiệp đã tích cực đổi mới, cải tiến phương thức sản xuất và đưa vào sản xuất các sản phẩm mới, qua đó tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đóng góp lớn, ngày càng bền vững vào thu NSNN. Bằng việc đánh giá, nghiên cứu mẫu cơ cấu thu NSNN về công nghiệp của các doanh nghiệp trọng điểm có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2017-2020 để thấy được cơ cấu thu ngân sách về công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Cụ thể:
Thứ nhất, trong tổng thu NSNN từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh, số thu nộp NSNN của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo giai đoạn 2017-2020 chiếm tỷ trọng cao nhất, bình quân 96%/năm và càng ngày càng tăng cao (năm 2016 chiếm 88,7% thì đến năm 2020 chiếm 99,5%); công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng giai đoạn 2016-2020 chiếm bình quân 3,43%/năm, công nghiệp cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giai đoạn 2016-2020 chiếm bình quân 0,02%/năm.
Thứ hai, cơ cấu về thu ngân sách của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thì từ doanh nghiệp hoạt động sản xuất ô tô, linh kiện, điên tử, sản xuất phụ từng, phụ kiện cho xe động cơ, sản xuất xi măng, vôi, thạch cao chiếm tỷ trọng cao. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: số thu ngân sách của doanh nghiệp hoạt động sản xuất linh kiện điện tử giai đoạn 2017-2020 chiếm bình quân 11%/năm tổng thu NSNN từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt từ 2% năm 2019 lên 35% năm 2020; doanh nghiệp hoạt động sản xuất phụ tùng, phụ kiện cho xe động cơ năm 2020 chiếm 14%; doanh nghiệp hoạt động sản xuất xi măng, vôi, thạch cao giai đoạn 2017-2020 chiếm 21%, tuy nhiên ngày càng giảm từ 38% năm 2017 xuống còn 13% năm 2020. Đối với khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh: số thu ngân sách của doanh nghiệp hoạt động sản xuất ô tô giai đoạn 2017-2020 chiếm tỷ trọng cao, chiếm bình quân 83%/năm.
Thứ ba, đặc biệt trong tổng số thu NSNN từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh, số thu NSNN của Tập đoàn Thành công (sản xuất xe ô tô) chiếm tỷ trọng cao và chủ yếu, giai đoạn 2017-2021 số thu NSNN từ Tập đoàn Thành Công là 28.973 nghìn tỷ đồng, chiếm 83% tổng thu NSNN khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh, chiếm 65% tổng thu nội địa (không bao gồm tiền sử dụng đất và xổ số kiến thiết) và tăng trưởng cao qua các năm, từ 46% năm 2017 lên 91% năm 2020. Do tập đoàn đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài, mở rộng quy mô dây truyền sản xuất, đầu tư thêm trang thiết bị, cơ sở hạ tầng để cạnh tranh với các hãng xe khác trong nước; chính sách bán hàng của Tập đoàn khá đa dạng với nhiều ưu đãi nên sức tiêu thụ và cạnh tranh của xe nội địa tăng đột biến.
Kết quả đạt được cho thấy việc xác định phát triển ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, điện tử và ngành công nghiệp hỗ trợ là những mũi nhọn kinh tế để từ đó ban hành các chủ trương, chính sách, tạo kiều kiện thuận lợi về thủ tục đàu tư, đất đai, xây dựng, … để các nhà đầu tư sớm triển khai dự án, đi vào hoạt động góp phần đẩy mạnh phát triển công nghiệp của tỉnh, tăng nguồn thu cho NSNN.
Thứ tư, trong cơ cấu thu khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp còn lại của khu vực kinh tế này phần lớn là các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, vốn mỏng, sức cạnh tranh yếu, sản xuất kinh doanh dựa vào NSNN, số nộp ngân sách phát sinh thấp, giai đoạn 2017-2021 có số nộp NSNN là 5.779 nghìn tỷ đồng, chiếm bình quân 17%/năm.
a) Một số tồn tại, hạn chế ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành công nghiệp của tỉnh cũng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế như:
Phần đa các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ và vừa, trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chậm được đổi mới, nhất là đối với các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chưa có nhiều sản phẩm chế biến sâu, mới chỉ có một vài sản phẩm ô tô, điện tử mang lại giá trị công nghiệp cao, tuy nhiên tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm còn thấp, vẫn còn thiếu các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ cho các ngành trên. Một số ngành chủ yếu thực hiện công đoạn gia công, lắp ráp nên giá trị gia tăng thấp; ngành công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh tuy đã có bước phát triển nhưng vẫn ở mức thấp, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ còn ít, khả năng cạnh tranh kém, chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu của các sản phẩm công nghiệp của tỉnh còn hạn chế, chủ yếu tham gia vào khâu gia công, lắp ráp.
Việc thu hút nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này vẫn còn gặp nhiều khó khăn do đây là ngành nghề đòi hỏi doanh nghiệp phải có kinh nghiệm, năng lực kỹ thuật và tài chính lớn.
b) Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
- Năng lực cạnh tranh của đa số các doanh nghiệp trong tỉnh còn nhiều hạn chế. Do năng lực quản lý tại các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, trình độ lao động có tay nghề cao còn ít, lực lượng lao động ở các huyện, thành phố thiếu nhiều, nhất là ở các doanh nghiệp may mặc, giày da...; đây là một trong những nguyên nhân sâu xa làm cho nguồn thu NSNN trên địa bàn tỉnh thời gian qua chưa đảm bảo cơ cấu thu theo hướng bền vững.
- Trụ cột tăng trưởng còn ít, chỉ mới tập trung được vào một số ngành. Điều đó chưa làm nên tính bền vững của cả một nền kinh tế.
- Nguồn lực đầu tư công chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là một số công trình trọng điểm và ở các địa bàn khó khăn, một số công trình chưa được đầu tư nâng cấp theo mục tiêu quy hoạch.
- Nhận thức của các cấp ủy, các ngành, các doanh nghiệp về vai trò của khoa học, công nghệ chưa đầy đủ, chưa toàn diện; khoa học công nghệ chưa thực sự là động lực và nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng và cho tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và tăng năng suất lao động.
3.1. Định hướng chiến lược về thu, chi NSNN tỉnh Ninh Bình
a) Định hướng chiến lược thu NSNN
Bảo đảm tỷ trọng thu nội địa không thấp hơn mục tiêu đề ra. Tăng tỷ trọng thu nội địa, đặc biệt thu từ thuế, phí. Đẩy mạnh các biện pháp chống thất thu thuế, giảm mạnh nợ đọng thuế và các khoản thu NSNN. Phấn đấu tổng thu NSNN trên địa bàn giai đoạn 2021-2025 là 96.162 tỷ đồng. Quy mô thu ngân sách ngày càng mở rộng, bảo đảm tỷ trọng thu nội địa ngày càng cao, đặc biệt là thu từ thuế, phí. Cơ cấu thu NSNN ngày càng hợp lý, bền vững. Tỷ trọng thu nội địa bình quân khoảng 70% tổng thu NSNN, tốc độ thu nội địa (không bao gồm tiền sử dụng đất) bình quân giai đoạn là 6%/năm. Thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế và đóng góp số thu cho NSNN ngày càng cao.
b) Định hướng chiến lược chi ngân sách địa phương
Tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN theo hướng tăng tỷ trọng chi đầu tư, giảm tỷ trọng chi thường xuyên. Tái cơ cấu chi đầu tư, chi thường xuyên gắn với việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả chi tiêu ngân sách trong thực hiện chủ trương, định hướng, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong quá trình tổ chức thực hiện và điều hành ngân sách hằng năm, ưu tiên dành nguồn lực chi đầu tư phát triển từ các nguồn tăng thu thực hiện/dự toán, nguồn tiết kiệm chi, nguồn dự phòng ngân sách, nguồn ngân sách trung ương bổ sung. Đảm bảo chi thường xuyên, chi cho con người, an sinh xã hội, chi cho quốc phòng, an ninh, các chính sách do địa phương ban hành và trung ương ban hành địa phương đảm bảo nguồn, thực hiện chính sách tiền lương cùng với việc thúc đẩy mạnh mẽ cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công, tinh giản biên chế. Đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi ngân sách, tránh lãng phí.
3.2. Định hướng chiến lược thu NSNN về công nghiệp đến năm 2030
- Chú trọng hơn đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống điều hòa ngân sách. Cần tạo ra các động lực mới để kích thích kinh tế phát triển, thông qua việc ưu tiên đầu tư hơn vào các ngành kinh tế công nghiệp có tiềm năng.
- Phát triển khu vực tư nhân để trở thành cốt lõi của nền kinh tế, theo đuổi mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng là năng suất lao động và đổi mới sáng tạo. Kết nối những doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tỉnh với các doanh nghiệp trọng điểm thông qua trao đổi thông tin, cải tiến kỹ năng và chuyển giao công nghệ.
- Cải thiện và thúc đẩy tăng năng suất lao động là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế, tăng nguồn thu bền vững cho NSNN. Tăng năng suất lao động là yếu tố quyết định đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế, năng suất lao động cao đồng nghĩa với phát triển nhanh và bền vững.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, trọng tâm là lĩnh vực thuế, hải quan, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
3.3. Một số giải pháp liên quan để đẩy mạnh nguồn thu
Để nuôi dưỡng nguồn thu NSNN bền vững từ phát triển công nghiệp chúng ta tập trung đẩy mạnh một số nhóm giải pháp phát triển bền vững công nghiệp tỉnh Ninh Bình đến năm 2030, cụ thể:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới công tác quản lý nhà nước về công nghiệp: Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và triển khai có hiệu quả các đề án phát triển các ngành công nghiệp; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, giải quyết nhanh chóng các kiến nghị của doanh nghiệp; tạo dựng môi trường sản xuất, kinh doanh minh bạch, thống nhất, cạnh tranh bình đẳng không phân biệt thành phần kinh tế.
Thứ hai, phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại trên cơ sở cơ cấu lại ngành công nghiệp với yêu cầu công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, tăng giá trị sản phẩm và đóng góp ngân sách lớn. Tiếp tục phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên và công nghiệp mũi nhọn: Ngành công nghiệp mũi nhọn là ngành có khả năng cạnh tranh, chiếm thị trường đáng kể tại thị trường trong nước và quốc tế, có khả năng tạo hiệu ứng lan tỏa, dẫn dắt và kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp khác, của các ngành công nghiệp phụ trợ như khuyến khích, ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, phụ trợ, chế biến chế tạo. Duy trì ổn định sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ lực gắn với bảo vệ môi trường.
Thứ ba, chiến lược phát triển công nghiệp cần tính toán lộ trình xây dựng, nuôi dưỡng và phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn một cách tối ưu trên cơ sở nền kinh tế hội nhập và khả năng huy động nguồn lực cho phát triển, vai trò và vị trí của các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư nhân.
Thứ tư, tập trung cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư có năng lực tài chính, kinh nghiệm đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Thứ năm, tập trung thực hiện các giải pháp phát triển giáo dục, đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới, sáng tạo. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho các ngành nghề trọng điểm, có năng suất, giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học công cao; tăng cường chính sách chế độ ưu đãi, thu hút nhân tài đối với cán bộ, chuyên gia, công nhân có tay nghề cao trong các ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh.
Thứ sáu, ưu tiên bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách cho nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, chuyển giao ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số về phát triển công nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt khu vực ngoài quốc doanh đầu tư cho khoa học và công nghệ. Khuyến khích các sáng kiến của doanh nghiệp để tạo ra các giải pháp công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, tạo ra sản phẩm có năng lực cạnh tranh cao; đổi mới căn bản, đồng bộ cơ chế quản lý tài chính đối với các tổ chức và hoạt động khoa học công nghệ, phương thức sử dụng NSNN cho khoa học công nghệ; hỗ trợ xây dựng và phát triển các doanh nghiệp khoa học - công nghệ trong công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp ưu tiên.
Thứ bảy, tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong sản xuất công nghiệp, đặc biệt trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tập trung đầu tư hoàn thiện đồng bộ hạ tầng xử lý môi trường; nâng cao chất lượng hiệu quả trong công tác báo cáo đánh giá tác động môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường đối với chủ đầu tư, đặc biệt là các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn 2016-2020, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh có bước phát triển khá cao, cơ cấu sản xuất trong nội bộ các ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh gắn với thị trường. Tốc độ tăng GRDP ngành công nghiệp (theo giá so sanh 2010) đạt 18,1%, năm 2020 GRDP (theo giá so sánh 2010) ngành công nghiệp đạt 13,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 30,5% tổng GRDP của toàn tỉnh; đóng góp trên 50% tổng số thu nội địa của tỉnh. Sản phẩm có đóng góp lớn cho ngành công nghiệp là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo như ô tô, camera modul, linh kiện điện tử, sản xuất kính xây dựng, …là yếu tố đóng góp chủ yếu trong tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh.
Có được kết quả trên do ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các bộ, ngành trung ương; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự vào cuộc tích cực của các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố và sự nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn của các doanh nghiệp, đặc biệt là sự chỉ đạo, điều hành linh hoạt, hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu kép trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 phát sinh từ đầu năm 2020. Việc xác định định hướng phát triển công nghiệp đúng đắn của tỉnh trong những năm vừa qua, ngoài việc ổn định, duy trì công suất của các nhà máy vật liệu xây dựng với các sản phẩm công nghiệp chủ lực truyền thống (như xi măng, clanke, sắt thép) gắn với chú trọng bảo vệ tài nguyên môi trường, tỉnh tập trung xúc tiến, thu hút kêu gọi đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, công nghiệp phụ trợ… ngành công nghiệp của tỉnh tiếp tục đạt được tốc độ phát triển cao nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo với đầu tàu là Liên doanh ô tô Huyndai và Tập đoàn Thành Công, có đóng góp lớn và ngày càng tăng cho ngân sách của tỉnh trong những năm qua (Số thu NSNN từ Tập đoàn Thành Công chiếm từ 29% tổng thu nội địa năm 2017 lên 75% tổng thu nội địa năm 2020).
Vương Thị Thơm, Hà Thị Phượng
1. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13
2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (2016), Chương trình hành động số 05-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020, Ninh Bình ngày 14/01/2016.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (2016), Chương trình hành động số 07-CTr/TU về Chương trình công tác toàn khóa của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020, Ninh Bình ngày 19/01/2016.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (2020), Chương trình hành động số 01-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (2021), Chương trình hành động số 07-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (2021), Nghị quyết số 06-NQ/TU về phát triển và quản lý khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Ninh Bình ngày 11/10/2021.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (2021), Nghị quyết số 07-NQ/TU về phát triển du lịch Ninh Bình giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2045, Ninh Bình ngày 29/10/2021.
8. Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh (2017), Nghị quyết số 07-NQ/BCSĐ về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô và công nghiệp điện tử trở thành ngành kinh tế chủ lực, tăng nguồn thu cho ngân sách tỉnh, Ninh Bình ngày 13/02/2017.
9. Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh (2018), Kết luận số 08-KL/BCSĐ về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/BCSĐ ngày 13/02/2017 của Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh về tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô và công nghiệp điện tử trở thành ngành kinh tế chủ lực, tăng nguồn thu cho ngân sách tỉnh.
10. Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình (2020), Nghị quyết số 105/NQ-HĐND về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2020-2025 tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình ngày 09/12/2020.
11. Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình (2017), Nghị quyết số 07/NQ-HĐND về Kế hoạch tài chính giai đoạn 2017-2020 của tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình ngày 15/3/2017.
12. Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình (2019), Nghị quyết số 48/NQ-HĐND về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình ngày 06/12/2019.
13. Niên giám thống kê tỉnh Ninh Bình năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020.
14. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2016-2021), Báo cáo kinh tế xã hội năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021.
15. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2016-2020), Báo cáo quyết toán thu chi NSNN tỉnh Ninh Bình năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020.