Banner chính
Thứ Năm, 21/11/2024
Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Ninh Bình

Hiệp định thương mại tự do FTA

Thứ Hai, 28/12/2015
Hiệp định thương mại tự do (Free Trade Area - FTA) về cơ bản, là hiệp định trong đó các nước tham gia ký kết thỏa thuận dành cho nhau những ưu đãi, đó là các hàng rào thương mại kể cả thuế quan và phi thuế quan đều được loại bỏ, song mỗi nước thành viên vẫn được tự do quyết định những chính sách thương mại độc lập của mình đối với các nước không phải thành viên của hiệp định.

FTA có thể là song phương được ký kết giữa 2 nước hoặc đa phương ký giữa nhiều nước. Tuy nhiên, dù là song phương hay đa phương, FTA thường đem lại lợi ích rất lớn cho các nước thành viên trong việc thúc đẩy thương mại, tận dụng những lợi thế so sánh của nhau. Không những thế, do có phạm vi hợp tác rộng, FTA còn xúc tiến tự do hóa đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, hiệu suất hóa thủ tục hải quan và nhiều dịch vụ khác.

Để thực hiện các cam kết về thương mại hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực cắt giảm thuế quan, hàng hóa sản xuất tại các nước thành viên phải đáp ứng những quy tắc xuất xứ trong các hiệp định FTA. Mỗi hiệp định FTA đều có quy tắc xuất xứ riêng để bảo đảm hàng hóa nếu đáp ứng các quy tắc xuất xứ sẽ được hưởng các ưu đãi thuế quan của các nước thành viên dành cho. Trong các hiệp định FTA của các nước ASEAN, về cơ bản, các quy tắc xuất xứ trong các hiệp định này đều có cấu trúc tương đối giống nhau. Tuy nhiên, do đặc thù của từng đối tác, đồng thời cùng với những cam kết cắt giảm khác nhau, quy tắc xuất xứ trong mỗi FTA của ASEAN cũng có những khác biệt nhất định.

Từ những năm đầu của thập niên 90 thế kỷ XX, song song với quá trình toàn cầu hóa, chủ nghĩa khu vực phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất, FTA ngày càng trở thành xu hướng phổ biến đến mức dù muốn hay không các nước đều phải xoáy vào cuộc chơi. Ngay cả những nước như Mỹ, Nhật Bản, EU trước đây tỏ ra thờ ơ với FTA mà dành nhiều sự quan tâm cho WTO và hệ thống thương mại đa phương, thì nay cũng đã có sự thay đổi. FTA ngày càng trở nên phổ biến bởi những lợi ích kinh tế mà nó mang lại, nhất là trong bối cảnh bế tắc của các vòng đàm phán do WTO chủ trương, khiến các nước đã phải chuyển hướng sang hợp tác song phương và liên kết khu vực nhằm tìm giải pháp cho phát triển thương mại hàng hóa và dịch vụ. Điều này lại tiếp tục dẫn tới việc những nước không tham gia FTA hoặc tham gia chậm sẽ bị gạt khỏi cuộc chơi, nên dường như FTA trở thành một xu hướng chung. Ngoài ra, tham gia FTA còn tạo cho các nước một sự “yên tâm” hơn khi có những bất ổn trong kinh tế, thương mại toàn cầu, cũng như đem lại lợi ích chính trị cho các nước tham gia qua việc nâng cao vị thế của họ trong đàm phán.

Tính đến nay, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN ký kết và triển khai thực hiện 3 FTA là Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA). Gần đây các hiệp định khác như Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Niu Di-lân, ASEAN - Ấn Độ... cũng đều đã hoàn tất.

Nhìn chung mục đích ký kết FTA của Việt Nam cũng giống như các nước khác là mong muốn tăng cường xuất khẩu, tạo sức hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường vị thế và gây dựng hình ảnh đất nước trên trường quốc tế. FTA còn có tác dụng gia tăng các sức ép để đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, sự đa dạng và phức tạp của quy tắc xuất xứ trong các FTA có thể sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện FTA. Sự tương đồng về lợi thế cạnh tranh, cũng như chênh lệch về trình độ phát triển của các nước tham gia cũng dễ dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt hoặc là có các rào cản lớn để các bên đàm phán được một FTA toàn diện.

Việt Nam đang tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do, trong đó có 10 FTA đã ký và 5 FTA đang đàm phán. Trong 10 FTA đã ký thì có 8 FTA đã có hiệu lực đang thực hiện, 2 FTA chưa có hiệu lực. Điều quan trọng nhất mà doanh nghiệp cần chú ý để hàng hóa được hưởng mức thuế quan ưu đãi lý tưởng theo các FTA chính là “quy tắc xuất xứ” hàng hóa, nếu không cũng chịu mức thuế bình thường. ‘Quy tắc xuất xứ’ là công cụ để xác định hàng hóa nhập khẩu có được hưởng thuế quan ưu đãi hay không, giúp duy trì sự cân bằng hợp lý giữa “thuận lợi hóa thương mại” và “phòng tránh gian lận thương mại”, đo mức độ tận dụng ưu đãi từ các FTA của các nền kinh tế thành viên.

“Chẳng hạn như Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), muốn được hưởng thuế quan ưu đãi thì chỉ còn cách đáp ứng quy tắc xuất xứ, còn nếu không vẫn phải xuất khẩu đi Mỹ bình thường, chịu mức thuế bình thường và không được hưởng thuế quan ưu đãi theo TPP”. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải nghiên cứu kỹ, có chiến lược về vấn đề này trước xu hướng gia tăng FTA trên thế giới, như: tiêu chuẩn lựa chọn đối tác, mức độ và sự chuẩn bị của các ngành để tham gia FTA, việc chuẩn bị các nguồn lực.

Đông Hà

Các tin khác