Banner chính
Thứ Năm, 21/11/2024
Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Ninh Bình

Thực trạng kháng kháng sinh của một số chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện tại Bệnh viện Sản nhi Ninh Bình năm 2015-2016

Thứ Sáu, 29/12/2017
TÓM TẮT
Bằng nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 1450 bệnh nhân có thời gian nằm viện từ 48 giờ trở lên tại Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình trong năm 2015-2016, kết quả cho thấy:
Có 4 chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện và kháng thuốc chủ yếu sau:

- Pseudomonas aeruginosa;

- Staphyloccuss aureus;

- Acinotobacter baumannii;

- Klebsiella pneumoniae.

Từ khóa: kháng kháng sinh, vi khuẩn, Bệnh viện Sản Nhi, Ninh Bình.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) và vi khuẩn kháng thuốc đang là vấn đề thách thức chất lượng khám chữa bệnh của mỗi bệnh viện trên toàn thế giới. Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới (WHO) tại các nước phát triển, có 5% tới 10% bệnh nhân (BN) nhập viện mắc ít nhất một loại NKBV. Tỷ lệ này ở những nước đang phát triển cao gấp 3- 20 lần so với những nước phát triển. NKBV làm tăng tỷ lệ mắc bệnh, tử vong, kéo dài ngày nằm viện và tăng chi phí điều trị.

NKBV không những gây hậu quả nặng nề về mặt lâm sàng, kinh tế mà còn là nguyên nhân làm xuất hiện những chủng vi khuẩn đa kháng thuốc. Tình trạng lạm dụng kháng sinh phổ biến ở những nước đang phát triển cũng là nguyên nhân làm trầm trọng thêm mức độ kháng thuốc của các chủng vi khuẩn bệnh viện.

Xét trong khuôn khổ một bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình là một trong hai bệnh viện có quy mô giường bệnh lớn nhất của tỉnh Ninh Bình. Tính đến thời điểm nghiên cứu, từ trước đến nay Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình chưa có nghiên cứu cơ bản nào về thực trạng kháng kháng sinh của một số chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện, do vậy chúng tôi triển khai nghiên cứu đề tài "Thực trạng kháng kháng sinh của một số chủng vi khuẩn gây nhiễm trùng bệnh viện tại bệnh viện Sản - Nhi Ninh Bình năm 2015- 2016".

Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng kháng kháng sinh của một số chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện tại Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình năm 2015-2016.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa bàn nghiên cứu:

Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình.

2.2. Thời gian nghiên cứu:

Từ tháng 5/2015 đến 5/2016.

2.3. Đối tượng nghiên cứu:

- Tiêu chuẩn lựa chọn: Là tất cả bệnh nhân có thời gian nằm viện ≥ 48 giờ, bao gồm cả bệnh nhân xuất viện trong ngày điều tra. Một số chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện và kháng thuốc.

- Tiêu chuẩn loại trừ: Những bệnh nhân có thời gian nằm viện dưới 48 giờ.

2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.1. Thiết kế nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích

2.4.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu thập số liệu

- Cỡ mẫu áp dụng cho điều tra cắt ngang:

Với:

p= 6,8% là tỷ lệ NKBV (Điều tra toàn miền Bắc, năm 2005).

ε = 0.2 là sai số tương đối cho phép trong nghiên cứu.

q= 1- p  là tỷ lệ không mắc NKBV.

α= 0.05 mức ý nghĩa thống kê.

 = 1.96

Thay vào công thức  tính được cỡ mẫu là 1386. Cộng thêm 5% ta được cỡ mẫu nghiên cứu là 1450.

- Lấy mẫu theo phương pháp thuận tiện cho đến khi đủ 1450 lượt bệnh nhân nhằm xác định tỷ lệ hiện mắc NKBV.

- Một số chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện và kháng thuốc tại Bệnh viện Sản Nhi Ninh Binh: Pseudomonas aeruginosa, Staphyloccuss aureus, Acinotobacter baumannii, Klebsiella pneumoniae.

3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

Bảng 3.1. Tỷ lệ sử dụng kháng sinh theo các khoa

Nhận xét: Tỷ lệ sử dụng kháng sinh chung tại bệnh viện chiếm 87,93%. Cụ thể cao nhất là khoa Sản- phụ chiếm 95,85%, sau đó đến Cấp cứu chiếm 93,21%, Sơ sinh chiếm 87,41%, Ngoại nhi chiếm 83,93%,thấp nhất là Nội nhi chiếm 80,05%.

Bảng 3.2. Tỷ lệ  sử dụng kháng sinh theo số loại kháng sinh phối hợp

Nhận xét: Bệnh nhân được sử dụng phối hợp 2 loại kháng sinh điều trị chiếm tỷ lệ cao nhất (46,04%), 1 loại đơn thuần chiếm 38,03%, sử dụng 3 loại chiếm 13,96%, sử dụng từ 4 loại kháng sinh trở lên chiếm 1,97%.

 

Bảng 3.3. Tình hình kháng kháng sinh của Pseudomonas aeruginosa

Nhận xét: Chủng Pseudomonas aeruginosa còn nhạy cảm với hầu hết các loại kháng sinh, đặc biệt với Colistin, Imipenem, Levofloxacin, Meropenem nhạy 100%, Pseudomonas aeruginosa kháng với Cefotaxim (52,4%). So sánh với một số nghiên cứu trước đó như nghiên cứu tại khoa Hồi sức tích cực tại bệnh viện Bạch Mai của tác giả Nguyễn Việt Hùng cho thấy Pseudomonas aeruginosa là vi khuẩn đa kháng thuốc rất mạnh, kháng mạnh với kháng sinh thuộc nhóm Quinolon, Cefalosporin và Aminoglycoside. Có tới trên 50% chủng Pseudomonas aeruginosa kháng Cefalosporin thế hệ 3 và với Imipenem tỷ lệ kháng là 8,2% [1]. Trong một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Văn Hòa thực hiện tại bệnh viện Hữu Nghị - Hà Nội thì tỷ lệ nhạy với Amikacin là 24,5%, nhạy với Imipenem là 85,7%, tỷ lệ nhạy với các thuốc thuộc dòng kháng sinh Cefalosporin thế hệ 3 dao động từ 0- 22,3% [2]. Như vậy có thể thấy tình hình kháng thuốc của chủng vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa tại bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình còn thấp hơn nhiều so với các bệnh viện tuyến Trung ương. Điều này hoàn toàn lý giải được do đặc thù điều trị bệnh nhân nặng tại các bệnh viện tuyến trên là cao hơn dẫn tới làm tăng tỷ lệ kháng thuốc.

 

Bảng 3.4. Tình hình kháng kháng sinh của S.aureus

Nhận xét: Chủng vi khuẩn S.aureus kháng với hầu hết các loại kháng sinh, chỉ còn nhạy cảm với Vancomycin (100%), Levofloxacin (94,9%), Ciprofloxacin (89,7%), Gentamycin (84,6%). Kết quả này cũng phù hợp với một số nghiên cứu trước đó, như nghiên cứu năm 2008 tại khoa Hồi sức tích cực bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội của tác giả Nguyễn Văn Hòa [2] cho thấy cầu khuẩn Gr (+) chiếm 53,3% trong các loại vi khuẩn phân lập được từ đường hô hấp, và thường gặp là tụ cầu vàng kháng thuốc, kháng Methicillin (Meti-R) và nhạy 100% với Vancomycin. Trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Hùng tại khoa Hồi sức bệnh viện Bạch Mai [1] cho thấy có tới 93,9% chủng S.aureus kháng Methicilin. Với tình hình kháng thuốc của chủng tụ cầu vàng thì bệnh viện cần có chính sách sử dụng kháng sinh hết sức đúng đắn và thực sự là một vấn đề đáng báo động hiện nay.

 

Bảng 3.5. Tình hình kháng kháng sinh của Acinotobacter baumannii

Nhận xét: Chủng vi khuẩn Acinotobacter baumannii kháng hầu hết với các loại kháng sinh, chỉ còn nhạy với Colistin (100%), Imipenem (100%), Levofloxacin (78%). Một nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Hùng và CS tại khoa Hồi sức tích cực bệnh viện  Bạch Mai thì Acinotobacter baumannii kháng với tất cả các loại kháng sinh, cụ thể tỷ lệ kháng với Fosmycin là 58,3%, kháng với Imipenem là 13,6%, kháng Amikacin là 51,2%, kháng từ 93,2% -100% đối với các loại kháng sinh Cefalosporin thế hệ 3 [1]. Tương tự trong nghiên cứu cảu tác giả Nguyễn Văn Hòa và CS thì Acinotobacter baumannii cũng  đa kháng với tất cả các loại kháng sinh như Imipenem kháng 19,5%, Amikacin kháng 47,6%, kháng Cefalospirin thế hệ 3 từ 80,9%- 85%. Có thể thấy rằng Acinotobacter baumannii là chủng vi khuẩn gặp chủ yếu tại tất cả các bệnh viện, là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm khuẩn bệnh viện và đặc biệt Acinotobacter baumannii rất khó điều trị, đa kháng thuốc rất mạnh. Kết quả của các nghiên cứu tại các nước đang phát triển cũng cho thấy Acinotobacter baumannii là một trong ba tác nhân nguy hiểm nhất gây nhiễm khuẩn bệnh viện [3].

 

Bảng 3.6. Tình hình kháng kháng sinh của Klebsiella pneumoniae

Nhận xét: Chủng vi khuẩn Klebsiella pneumoniae còn nhạy với Colistin (100%), Imipenem (100%), Fosfomycin (92,6%), Levofloxacin (88,9%), Amikacin (85,2%). Kháng với hầu hết các kháng sinh còn lại. Trong kết quả của một số nghiên cứu trước đó thì tỷ lệ kháng thuốc của Klebsiella pneumoniae cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Bạch Mai thì tỷ lệ kháng Fosfomycin là 100%, kháng Gentamycin là 100%, kháng 87,5% với Amikacin, kháng 66,7% với Cefoperazone [1]. Tại Mỹ tỷ lệ Klebsiella pneumoniae kháng với Ceftazidine tại đơn vị Hồi sức tích cực luôn có xu hướng ngày càng tăng từ 3,6% lên 14,4%  trong 3 năm từ năm 1999- 2002 [4].

Bảng 3.7. Tình hình kháng kháng sinh của Escherichia coli

Nhận xét: Chủng Escherichia coli còn nhạy với Imipenem (100%), Colistin (100%), Fosfomycin (93,6%), Levofloxacin (90,1%), Amikacin (100%). Còn lại kháng với các loại kháng sinh còn lại.

4. KẾT LUẬN

Có 4 chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện chủ yếu và kết quả kháng kháng sinh của những chủng vi khuẩn này:

- Pseudomonas aeruginosa: Kháng tương đối với các loại kháng sinh thông thường, nhạy cảm tương đối với Amikacin (95,2%), Ceftazidime (92,5%), Ciprofloxacin (85,7%). Nhạy cảm 100% với các loại kháng sinh Colistin, Imipenem, Meropenem, Levofloxacin.

- Tính kháng thuốc của chủng S.aureus: Tụ cầu vàng đa kháng với hầu hết với các loại kháng sinh thông thường, còn nhạy tương đối với một số loại như: Ciprofloxacin (89,7%), Gentamycin (84,6%), Levofloxacin (94,9%), nhạy 100% với Vancomycin.

- Tính kháng thuốc của chủng Acinotobacter baumannii: Kháng hầu hết tất cả các loại kháng sinh, chỉ còn nhạy cảm với Colistin (100%), Imipenem (100%), với Amikacin tính nhạy cảm cũng không cao (66,7%).

- Tính kháng thuốc của vi khuẩn Klebsiella pneumoniae: Tỷ lệ kháng thuốc của Klebsiella pneumoniae rất cao, kháng hầu hết các loại kháng sinh, chỉ còn nhạy tương đối với Amikacin (85,2%), với Levofloxacin (88,9%), với Fosfomycin (92,6%), còn nhạy 100% với Colistin và Imipenem.

5. KHUYẾN NGHỊ

Nhằm mục đích làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện và giảm tỷ lệ đa kháng thuốc tại Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình, chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị như sau:

1. Bệnh viện cần triển khai đồng bộ các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện như tăng cường giám sát thực hành kiềm soát nhiễm khuẩn. Đặc biệt chú trọng khoa Sơ sinh và thực hiện gói giải pháp pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn đường hô hấp ở bệnh nhi.

2. Bệnh viện cần có chính sách sử dụng kháng sinh hợp lý. Cần tuân thủ đúng nguyên tắc điều trị kháng sinh theo kết quả nuôi cấy và làm kháng sinh đồ. Đồng thời cần triển khai rộng rãi liệu pháp sử dụng kháng sinh dự phòng nhằm kiểm soát các loại nhiễm khuẩn bệnh viện.

3. Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn là đầu mối, hoạt động tích cực mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn tại tất cả các khoa phòng nhằm thực hiện nghiêm ngặt công tác kiểm tra giám sát vấn đề tuân thủ kiểm soát nhiễm khuẩn ở nhân viên y tế. Vệ sinh bàn tay là một trong những nội dung quan trọng trong giám sát thường quy. Đồng thời theo dõi tỷ lệ hiện mắc nhiễm khuẩn bệnh viện định kỳ, thường xuyên và đưa ra con số báo cáo với lãnh đạo bệnh vện nhằm sớm có giải pháp can thiệp và phòng ngừa kịp thời.

Đỗ Văn Dung1, Nguyễn Thị Hương2

1 Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật tỉnh Ninh Bình

2 Bệnh viện Sản Nhi Ninh Bình

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Việt Hùng, Nguyễn Mỹ Châu, Trương Anh Thư và một số CS “Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện tại bệnh viện Bạch Mai năm 2001”. Công trình nghiên cứu của bệnh viện Bạch Mai 2001- 2002.

2. Nguyễn Văn Hòa và CS (2005), “Tình hình kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn gây bệnh thường gặp tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội năm 2005”.

3. Andrew J. Hughes, FRACP; Nolizza MBBS (2005); “Prevalence of nosocomial infection and antibioticus at university medical center in Malaysia”, Vol.26, pp101- 104.

4. National Noscomial Infection Surveillance (NNIS) System (2002), “National Nosocomial Infectine Surveillance system report: Data summary from Jenury 1992 to 2002”, Am J Infect control, 30,pp. 458-475.

Các tin khác