Kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy như sau: thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS trong nghiên cứu này có tỷ lệ tương đối thấp. Nói cách khác, tỷ lệ người dân không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS tương đối cao ở tất cả các địa điểm nghiên cứu so với mục tiêu của Bộ Y tế đề ra (60% không kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HV/AIDS vào năm 2015), cụ thể:
- Người nhiễm HIV/AIDS tự kỳ thị: tại cộng đồng là 37,3%; tại gia đình là 30,7%; tại cơ sở y tế là 18,8%; tại nơi làm việc là 16,3% và tại trường học là 8,8%.
- Người nhiễm HIV/AIDS bị kỳ thị, phân biệt đối xử: tại cộng đồng là 33,7%; tại gia đình là 24,7%; tại cơ sở y tế là 13,0%; tại nơi làm việc là 16,0% và tại trường học là 15,6%.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỉnh Ninh Bình, từ trước đến nay chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về “kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS”. Hoa Lư là một huyện có tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao nhất trong tỉnh (0,66%), hình thái dịch tương đối phức tạp, tình hình kiểm soát dịch còn khó khăn. Để góp phần triển khai có hiệu quả các hoạt động dự phòng, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị người nhiễm HIV/AIDS (NCH) cũng như giải quyết những rào cản đối với việc thực hiện đầy đủ các quyền của người nhiễm HIV/AIDS, bao gồm quyền học tập, lao động, sinh hoạt... đã được pháp luật quy định tại tỉnh Ninh Bình, đó là giải pháp làm giảm, tiến tới không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS.
Xuất phát từ những lý do trên, và để trả lời câu hỏi “Tăng tỷ lệ người dân không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV lên 60% vào năm 2015”, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS tại huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình năm 2015”. Với mục tiêu: Mô tả thực trạng sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS tại huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình năm 2015.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Người nhiễm HIV/AIDS, một số cơ quan, ban ngành, cộng đồng tại địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích kết hợp nghiên cứu định lượng và định tính.
Mẫu nghiên cứu:
- Nghiên cứu định lượng: 300 người nhiễm HIV/AIDS tại huyện Hoa Lư, Ninh Bình.
- Nghiên cứu định tính:
+ Thảo luận nhóm 4 cuộc: cộng đồng, cơ sở y tế, trường học, người nhiễm HIV/AIDS.
+ Phỏng vấn sâu 4 cuộc: phòng Lao động, phòng Giáo dục, trung tâm Y tế, hộ gia đình người nhiễm HIV/AIDS.
Xử lý và phân tích số liệu:
Nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và làm sạch, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. Số liệu được trình bày dưới dạng bảng, biểu đồ kết hợp với phiên giải, bàn luận.
III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Một số thông tin chung về người nhiễm HIV/AIDS
Trong 300 đối tượng nghiên cứu, kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy:
- Nam giới chiếm tỷ lệ (62,0%) cao hơn nữ giới (38,0%); xét về tuổi cho thấy 97% đối tượng nằm trong độ tuổi lao động, trong đó tuổi từ 30-39 chiếm tỷ lệ cao nhất (54,3%), sau đó là lứa tuổi từ 40-49 (31,3%), các nhóm tuổi khác chiếm tỷ lệ thấp hơn.
- Học vấn của người nhiễm HIV/AIDS chiếm 3/4 từ THCS trở xuống.
- Về tình trạng hôn nhân, tỷ lệ đang sống cùng vợ/chồng chiếm tỷ lệ cao (76%); số ly dị, ly thân và góa chiếm tỷ lệ 11,4%.
- Người nhiễm HIV/AIDS đang sống chung với vợ/chồng chiếm tỷ lệ cao nhất (70,7), sau đó là sống chung với cha/mẹ/anh/chị/em (23,7%), số sống độc thân chiếm 5,6%.
- Trước khi họ bị nhiễm HIV, nghề của họ là nghề tự do và làm ruộng chiếm tỷ lệ cao nhất (51,7% và 37,3%), số người là viên chức, công nhân chiếm 7,3%, số thất nghiệp rất thấp (1%). Sau khi bị nhiễm HIV, nghề nghiệp của họ có thay đổi, nghề tự do và làm nông vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất (48,7% và 35,7%), số thất nghiệp tăng lên 8,3%, số viên chức và công nhân giảm đáng kể (từ 7,3% giảm xuống 4,3%).
- Thu nhập trung bình hộ gia đình của họ trước khi nhiễm HIV tương đối cao 1.696.533 đồng/người/tháng, nhưng sau khi nhiễm HIV - hiện tại thu nhập trung bình giảm đáng kể, giảm xuống còn 870.833 đồng/người/tháng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đối tượng nghiên cứu được chẩn đoán HIV dương tính trong khoảng thời gian từ 10 năm trở lại đây chiếm tỷ lệ rất cao (88,7%); số nhiễm trên 10 năm chiếm 11,3%, người có thời gian nhiễm lâu nhất là 22 năm.
- Trong tổng số 300 đối tượng được điều tra, có 165 người đang được quản lý điều trị ARV, còn lại 108 người đang điều trị ARV ở các cơ sở khác không được quản lý tại địa bàn nghiên cứu, Như vậy có tổng số 273 người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV chiếm tỷ lệ tương đối cao (91,0%), trong số đó có 60,3% được điều trị ARV từ 5 năm trở lại đây.
- Số nghiện chích ma túy là 149 chiếm 49,7%. Trong đó số người có thời gian nghiện chích ma túy từ 10 năm trở lại đây chiếm 75,8%. Số người nghiện chích ma túy đang tham gia cai nghiện bằng thuốc methadone là 31, chiếm 20,8%.
- Trong 300 đối tượng được phỏng vấn, có 249 người có con chiếm 83%, số người có 2 con và 1con chiếm tỷ lệ cao (45,8% và 43,8%). Số đối tượng có con nhiễm HIV là 46 chiếm 18,5%.
- Số đối tượng đạt về kiến thức phòng, chống HIV/AIDS là 235 chiếm tỷ lệ tương đối cao (78,3%). Số không đạt chiếm 21,7%. Số đạt về kiến thức pháp luật liên quan đến HIV/AIDS là 216 chiếm 72%. Số không đạt chiếm 28%.
3.2. Các hình thức và nội dung kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS
Bảng 3.1. Phân bố người nhiễm HIV theo sự kỳ thị và PBĐX tại gia đình (n=300)
Qua bảng 3.1 cho chúng ta thấy: Trong gia đình, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 30,7%. Tỷ lệ này tại Sri Lanka là 19% [8].
Số người nhiễm HIV bị gia đình kỳ thị và phân biệt đối xử là 74 chiếm 24,7%; tỷ lệ này theo Đặng Văn Khoát là 21,3% [3], theo Lưu Bích Ngọc là 50% [4]. Trong số đó, hình thức xì xào, bàn tán chiếm tỷ lệ cao nhất (52,7%); khinh bỉ, miệt thị, nhục mạ 48,6%; tiết lộ tình trạng nhiễm HIV/AIDS 45,9%; các hình thức khác chiếm tỷ lệ thấp hơn từ 5,4% đến 18,9%.
Bảng 3.2. Phân bố người nhiễm HIV theo sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại cộng đồng (n=300)
Qua bảng 3.2 cho chúng ta thấy: Trong cộng đồng, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 37,3%. Tỷ lệ này theo Lưu Bích Ngọc là 23% [4].
Số người nhiễm HIV bị cộng đồng kỳ thị và phân biệt đối xử là 101 chiếm 33,7%; tỷ lệ này theo Đặng Văn Khoát là 28% [3], theo Vũ Văn Xuân là 38,3% [5]. Trong số đó,hình thức xì xào,bàn tán chiếm tỷ lệ cao nhất (86,1%); tiết lộ tình trạng nhiễm HIV/AIDS chiếm 34,7%; cấm/hạn chế NCH tham gia các hoạt động nơi công cộng chiếm 22,8%; khinh bỉ, miệt thị, nhục mạ chiếm 21,8%; các hình thức khác chiếm tỷ lệ thấp hơn từ 1% đến 18,8%.
Bảng 3.3. Phân bố người nhiễm HIV theo sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại nơi học tập (n=249)
Bảng 3.3 cho chúng ta thấy:
Trong trường học, người nhiễm HIV đánh giá con của họ tự kỳ thị chiếm tỷ lệ tương đối thấp (8,8%).
Tỷ lệ học sinh bị trường học kỳ thị, phân biệt đối xử chiếm 15,6%; tỷ lệ này theo Lê Thị Mỹ Hạnh là 31,1% [2]. Trong số bị kỳ thị, các hình thức xì xào, bàn tán chiếm tỷ lệ cao nhất (76,9%); công khai người nhiễm chiếm 28,2%; khinh bỉ, miệt thị, nhục mạ, và bạn bè, giáo viên xa lánh có tỷ lệ 15,4%; các hình thức khác chiếm tỷ lệ thấp hơn, từ 0,3% đến 7,7%.
Bảng 3.4. Phân bố người nhiễm HIV theo sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại nơi làm việc (n=300)
Qua bảng 3.4 cho thấy:
Tại nơi làm việc, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 16,3%.
Số người nhiễm HIV bị kỳ thị và phân biệt đối xử tại nơi làm việc là 48 chiếm 16%; theo Ann P.Zukoski (2009) tại Bangladesh có 14,6% người nhiễm HIV là nam giới và 14,3% là nữ giới báo cáo bị đồng nghiệp kỳ thị [6]. Trong số đó, hình thức xì xào, bàn tán chiếm tỷ lệ cao nhất (68,8%); xa lánh, ngại tiếp xúc với NCH chiếm tỷ lệ 29,2%; tiết lộ tình trạng nhiễm HIV/AIDS chiếm 20,8%; khinh bỉ, miệt thị chiếm 10,4%; buộc thôi việc, nghỉ việc với lý do không chính đáng chiếm tỷ lệ 10,4%; các hình thức khác chiếm tỷ lệ thấp hơn từ 2,1% đến 6,3%.
Bảng 3.5. Phân bố người nhiễm HIV theo sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại các cơ sở y tế (n=300)
Nhìn vào bảng 3.5 cho ta thấy:
Tại cơ sở y tế, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 18,8%.
Số người nhiễm HIV bị kỳ thị và PBĐX tại cơ sở y tế là 41 chiếm tỷ lệ tương đối thấp (13%), tỷ lệ này theo Đặng Văn Khoát là 21,3% [3], theo UNAIDS tỷ lệ này giao động từ 4-33% [7]. Trong số bị kỳ thị, phân biệt đối xử, hình thức thầy thuốc miễn cưỡng tiếp xúc hoặc bắt người bệnh phải chờ lâu chiếm tỷ lệ cao nhất (87,8%); sau đó là hình thức đùn đẩy bệnh nhân chiếm 63,4%; gây khó khăn khi nhập viện chiếm 41,3%, hình thức khinh bỉ, miệt thị người bệnh chiếm tỷ lệ thấp hơn (31,7%).
Biểu đồ 3.1 cho chúng ta thấy:
- Người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ cao nhất là tại cộng đồng (37,3%), tiếp theo là tại gia đình (33,7%), sau đó là tại cơ sở y tế (18,8%), tại nơi làm việc họ tự kỳ thị chiếm tỷ thấp hơn (16,3%), thấp nhất là tại nơi học tập (8,8%).
- Nhìn chung tỷ lệ người nhiễm HIV bị kỳ thị thấp hơn tỷ lệ tự kỳ thị ở hầu hết các địa điểm, ngoại trừ tại nơi học tập, tỷ lệ trẻ em bị kỳ thị cao hơn đáng kể so với tỷ lệ tự kỳ thị (15,6% so với 8,8%); ngược lại tại cơ sở y tế, tỷ lệ bị kỳ thị thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ tự kỳ thị (13,7% so với 18,8%).
3.3.Một số thái độ và hành vi khác của người nhiễm HIV/AIDS liên quan đến kỳ thị và phân biệt đối xử
Bảng 3.6. Một số thái độ và hành vi khác của người nhiễm HIV (n=300)
Bảng 3.6 cho chúng ta thấy:
- Phần lớn người nhiễm HIV hòa nhập cộng đồng tương đối tốt, thể hiện bằng những hành vi tích cực của họ như: có tới 88,7% số họ đã tự giác, tự tin, tự lực trong cuộc sống;
- Hơn một nửa số họ (57,7%) đã công khai tình trạng nhiễm HIV; gần một nửa (42,3%) có tham gia các câu lạc bộ tự lực; Theo Đỗ Đăng Đông có ¾ người nhiễm HIV công khai tình trạng nhiễm HIV của mình [1].
- Đặc biệt có tới 94,3% người nhiễm HIV đồng ý với quan điểm “không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS là một giải pháp hữu hiệu giúp họ tiếp cận tốt các dịch vụ dự phòng, hỗ trợ, chăm sóc, điều trị, giảm hại cho người nhiễm HIV/AIDS và bảo đảm các quyền của họ”;
- Nhưng vẫn có 10,3% người nhiễm HIV cho rằng “nhóm người nhiễm HIV/AIDS là những người sống trái pháp luật, thiếu đạo đức”.
Biểu đồ 3.2 cho thấy: trong số 300 người nhiễm HIV được phỏng vấn họ rằng đối tượng chính bị kỳ thị, phân biệt đối xử chiếm tỷ lệ từ cao đến thấp như sau: người nhiễm HIV đồng thời NCMT chiếm 27,7%, người NCMT 24,3%, NCH 18%, GMD 15,3%, người nhiễm HIV là gái mại dâm 7% và quan hệ tình dục đồng tính nam (MSM) là 0,7%. Theo Đỗ Đăng Đông có 56,5% người được phỏng vấn cho là NCMT là lý do phổ biến nhất của sự kỳ thị và phân biệt đối xử [1].
Bảng 3.7. Người nhiễm HIV là nữ giới bị bạo hành giới trong 3 tháng gần đây nhất (n=114 )
Qua bảng 3.7 cho thấy: Trong số 114 người nhiễm HIV là nữ giới có 20 người (chiếm 17,5%) bị bạo hành trong 3 tháng trước điều tra. Hơn một nửa số họ bị bạo hành đồng thời cả 3 hình thức (tinh thần, thể xác và tình dục); hình thức bạo hành tinh thần chiếm tỷ lệ cao nhất (70%).
Qua biểu đồ 3.3 cho thấy: Hậu quả do kỳ thị, phân biệt đối xử mang lại cho người nhiễm HIV và xã hội là tương đối nhiều. Hậu quả có thể mang lại nhiều nhất là làm cho người nhiễm HIV tự ti, hổ thẹn (61,3%), tiếp theo là làm cho họ dấu bệnh (58,7%), cơ hội tìm việc làm ít đi (54,7%); các hậu quả khác chiếm từ 20,3% đến 47%.
KẾT LUẬN
1. Các thông tin chung về 300 người nhiễm HIV trong nghiên cứu: nam giới chiếm tỷ lệ cao (62,0%); hầu hết nằm trong độ tuổi lao động (97%); đa số có trình độ học vấn thấp từ THCS trở xuống; thời gian nhiễm HIV của đối tượng chủ yếu dưới 10 năm, liên quan tới nghiện chích ma túy cao; tỷ lệ có vợ/chồng cao và tỷ lệ có con cũng cao, nhưng tỷ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con ở mức thấp (18,5%).
Về kiến thức của NCH: tỷ lệ không đạt về kiến thức phòng, chống HIV/AIDS (21,7%) và kiến thức pháp luật (28%) còn cao.
2. Về kỳ thị, PBĐX với người nhiễm HIV:
Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nghiên cứu này có tỷ lệ tương đối thấp. Nói cách khác, tỷ lệ của người dân không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV tương đối cao ở tất cả các địa điểm nghiên cứu so với mục tiêu của Bộ Y tế đề ra (60% không kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HV/AIDS vào năm 2015), cụ thể:
- Trong gia đình, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 30,7%. Số người nhiễm HIV bị gia đình kỳ thị và phân biệt đối xử chiếm 24,7%.
- Trong cộng đồng, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 37,3%. Số người nhiễm HIV bị cộng đồng kỳ thị và phân biệt đối xử chiếm 33,7%.
- Trong trường học, người nhiễm HIV đánh giá con của họ tự kỳ thị chiếm tỷ lệ thấp (8,8%). Tỷ lệ học sinh bị trường học kỳ thị, phân biệt đối xử chiếm 15,6%.
- Tại nơi làm việc, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 16,3%. Số người nhiễm HIV bị kỳ thị và phân biệt đối xử tại nơi làm việc chiếm 16%.
- Tại cơ sở y tế, người nhiễm HIV tự kỳ thị chiếm tỷ lệ 18,8%. Số người nhiễm HIV bị kỳ thị và phân biệt đối xử tại cơ sở y tế chiếm tỷ lệ tương đối thấp (13%).
- Các thái độ và hành vi của người nhiễm HIV liên quan tới phòng, chống HIV/AIDS cũng được thể hiện theo chiều hướng tích cực trong kết quả nghiên cứu.
KHUYẾN NGHỊ
Tuy tỷ lệ tự kỳ thị và bị kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS ở mức tương đối thấp, nhưng để nói không với kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm vào năm 2030 là mục tiêu kỳ vọng của hành tinh này. Vì vậy đề nghị hệ thống chính trị của huyện Hoa Lư và của tỉnh Ninh Bình cần tiếp tục tăng cường công tác truyền thông thay đổi hành vi nói chung về phòng, chống HIV/AIDS và về giảm kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm nói riêng.
Đỗ Văn Dung, Liên hiệp Các Hội KH&KT Ninh Bình
Vũ Thị Lan, Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Đăng Đông, Nguyễn Phương Hiền, Phạm Đức Mạnh và cộng sự (2012), Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử ở ba nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao để phân biệt được sự kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV ở Việt Nam, Tạp chí Y học thực hành, năm 2013, số 889+890, (tr.411-416).
2. Lê Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Thị Thanh Trang (2013), Đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống HIV/AIDS trên người dân 15-49 tuổi ở tỉnh Long An năm 2012, Tạp chí Y học thực hành, năm 2013, số 889+890, (tr.386-389).
3. Đặng Văn Khoát & Chu Quốc Ân (2005), Phân tích tình hình phân biệt đối sử liên quan đến HIV/AIDS trong lĩnh vực y tế ở Hà Nội, Việt Nam, Y tế Công cộng, 4, pp 33-38.
4. Lưu Bích Ngọc (2010), Gia đình Việt Nam đối mặt với HIV/AIDS: Các thái độ kỳ thị, Tạp chí Y học thực hành, năm 2010, số 742 + 743 (tr590 - tr592).
5. Vũ Văn Xuân và CS (2009), Nghiên cứu thông tin phản hồi của người nhiễm HIV/AIDS về sự hỗ trợ của gia đình và cộng đồng, Tạp chí Y học thực hành số 3(860).
6. Ann P. Zukoski, and Sheryl Thorburn (2009), Experiences of Stigma and Discrimination among Adults Living with HIV in a Low HIV-Prevalence Context: A Qualitative Analysis, AIDS patient care and STDs, 23(4): 267-276.
7. UNAIDS, IPPF, ICW global (2011), People living with HIV stigma index, Asia Pacific regional analysis.
8. Ullah Ahsan (2011), "HIV/AIDS-Related Stigma and Discrimination: A Study of Health Care Providers in Bangladesh", J Int Assoc Physicians AIDS Care (Chic), 10(2), pp. 97-104.