Banner chính
Thứ Sáu, 29/03/2024
Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật Ninh Bình

Thực trạng xét nghiệm HIV tự nguyện của phụ nữ mang thai tại 8 xã của huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2016

Thứ Tư, 26/10/2016
TÓM TẮT
Đề tài được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích, trên 401 phụ nữ mang thai (PNMT), tại 8 xã của huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy như sau: Phụ nữ mang thai có xét nghiệm HIV tự nguyện chiếm tỷ lệ cao (90,3%), trong đó tỷ lệ xét nghiệm HIV tự nguyện 1 lần chiếm cao nhất với 55,5%. Phụ nữ mang thai ở tháng thứ 1 đến 3 có tỷ lệ xét nghiệm HIV tự nguyện chiếm 62,7%. Tỷ lệ xét nghiệm ở trạm y tế xã chiếm cao nhất là 73,4%. Hầu hết phụ nữ mang thai đã được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện chiếm 98,5%, số lần xét nghiệm HIV tự nguyện 1 lần đạt cao nhất với 71,3%.

SUMMARY

THE REALITY OF VONLUNTARY TESTING FOR HIV WITH PREGNANT WOMEN IN 8 OMMUNES IN KIM SON, NINH BINH IN 2016

This study was performed according to the method described cross-sectional studies analyzed with over 401 pregnant women, in eight communes in Kim Son district, Ninh Binh province in 2016. The research results show us: pregnant women with voluntary HIV testing with high percentage (90.3%), while the proportion of voluntary HIV testing accounted for the highest 1 with 55.5%. Pregnant women in the first month to in the third-month had the rate of voluntary HIV testing accounting 62.7%. Proportion Tests at Health Center occupied 73.4%. Most pregnant women have been advised of voluntary HIV testing accounted for 98.5%, the number of voluntary HIV testing for the first time accounting 71.3% was the highest.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tại Ninh Bình, từ ca nhiễm HIV đầu tiên năm 1995, tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2015 đã có 3.604 người nhiễm HIV, trong đó có 1.627 người nhiễm HIV còn sống, 948 bệnh nhân AIDS và 1.029 bệnh nhân AIDS tử vong, lây nhiễm HIV chủ yếu vẫn qua ba đường chính, đường máu chiếm 69% chủ yếu do tiêm chích ma túy, đường tình dục ở mức 29%, đường từ mẹ sang con là 2%, Kim Sơn là huyện có số người nhiễm HIV cao nhất toàn tỉnh 1.003 trường hợp chiếm 28% số ca nhiễm HIV của tỉnh, các ca nhiễm mới gia tăng ở nữ giới chủ yếu là do quan hệ tình dục không an toàn phần lớn do lây nhiễm từ chồng hoặc bạn tình nghiện chích ma túy hoặc đi làm ăn xa trở về đây là nguy cơ dẫn đến tăng các trường hợp mang thai nhiễm HIV. Trong những năm gần đây chiều hướng dịch ở Ninh Bình đang có xu hướng chững lại nhưng về cơ bản vẫn chưa khống chế được dịch tuy nhiên vẫn còn tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ dịch có thể bùng phát trở lại nếu không có các biện pháp can thiệp dự phòng và cung cấp các dịch vụ thích hợp[3].

Để tăng cường hiệu quả của chương trình phòng, chống HIV/AIDS ở Ninh Bình góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 là “Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2020, giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội” trong đó mục tiêu cụ thể là “Giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 5% vào năm 2015 và dưới 2% vào năm 2020” [4], chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng xét nghiệm HIV tự nguyện của phụ nữ mang thai tại 8 xã, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2016”.  Với mục tiêu: Mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ xét nghiệm HIV tự nguyện của phụ nữ mang thai tại 8 xã của huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2016.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu:

Đối t­ượng nghiên cứu là những phụ nữ mang thai tại xã: Yên Lộc,  Kim Chính, Quang Thiện, Đồng Hướng, Như Hòa, Ân Hòa, Hùng Tiến, và thị trấn Phát Diệm thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2016.

Phương pháp nghiên cứu:

Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.

Mẫu nghiên cứu:

Nghiên cứu định lượng: 401 phụ nữ mang thai.

Xử lý và phân tích số liệu:

Nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và làm sạch, phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. Số liệu được trình bày dưới dạng bảng, biểu đồ kết hợp với phiên giải, bàn luận.

III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

3.1. Một số thông tin chung, kiến thức và thái độ của PNMT về dịch vụ xét nghiệm HIV tự nguyện

Trong 401 PNMT, kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy:

- Đa số PNMT tập trung ở độ tuổi từ 19-29 tuổi chiếm 68,6%, tiếp theo là độ tuổi từ 30-35 tuổi chiếm 24,4%, thấp nhất là nhóm tuổi dưới 19 tuổi với 1,5%.

- PNMT có trình độ học vấn ở bậc THCS chiếm tỷ lệ cao nhất là 48,1%, tiếp theo ở bậc THPT (39,1%).

- PNMT làm nông nghiệp chiếm 60,3%, tiếp theo là cán bộ, công nhân viên chiếm 13,7%.

- PNMT sinh con 1 lần chiế 44,6%, sinh con từ 2 đến 3 lần 29,2% và sinh con là ≥3 lần chiếm 2,5%.

- Trong quá trình mang thai này đối tượng khám thai 2 lần chiếm tỷ lệ cao nhất với 42,1%, tiếp theo là khám thai 1 lần chiếm 29,9%, khám thai 3 lần chiếm 20% và trên 3 lần chiếm tỷ lệ thấp nhất là 8,0%.

- PNMT biết HIV lây truyền qua đường máu, đường tình dục và từ mẹ sang con với tỷ lệ lần lượt là 91,3%, 85,3% và 78,3%; tỷ lệ đối tượng biết đầy đủ 3 đường lây truyền HIV chiếm tỷ lệ 74,8%.

- PNMT biết đường lây truyền từ mẹ sang con qua sữa mẹ là 69,8%, tiếp theo là qua đường âm đạo khi sinh chiếm 67,6% và qua nhau thai là 60,3%, có 0,5% đối tượng không biết về vấn đề này.

- PNMT biết các biện pháp phòng lây nhiễm HIV/AIDS là đến cơ sở đỡ đẻ an toàn cao nhất chiếm 72,3%, tiếp theo là điều trị dự phòng cho con (47,4%) và điều trị cho mẹ từ tuần 14 của thai kỳ (40,4%). Tỷ lệ đối tượng không biết về các biện pháp phòng lây nhiễm chiếm thấp nhất là 0,7%.

- Phần lớn PNMT cho rằng xét nghiệm HIV tự nguyện cho thai phụ là biện pháp dự phòng lây nhiễm chiếm 82,3%, tiếp theo là khuyến khích tình dục an toàn và truyền thông để thay đổi hành vi chiếm tỷ lệ tương đương nhau với 45,6% và 45,1%.

- Đa số các PNMT trong nghiên cứu mong muốn được xét nghiệm HIV tự nguyện khi mang thai chiếm 92,8%. Về lý do PNMT nên xét nghiệm HIV tự nguyện, để điều trị dự phòng lây truyền HIV sang con chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm 67,8%, tiếp theo là để biết tình trạng nhiễm HIV của mình chiếm 67,6%, tránh lây nhiễm cho người khác là 25,9%. Thấp nhất là tỷ lệ đối tượng biết để không có con lần sau (21,4%).

3.2. Thực trạng xét nghiệm HIV tự nguyện của PNMT tại địa bàn nghiên cứu

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ % PNMT xét nghiệm HIV tự nguyện (n=401)

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ xét nghiệm HIV tự nguyện của PNMT tương đối cao, chiếm 90,3%, và vẫn còn 9,7% PNMT không đi xét nghiệm HIV tự nguyện.

Bảng 3.1. Tỷ lệ số lần PNMT xét nghiệm HIV tự nguyện

Tỷ lệ PNMT đi xét nghiệm HIV tự nguyện 1 lần chiếm cao nhất với 55,5%, tiếp theo là 2 lần (33,7%), lần thứ 3 là 5,8%.

Bảng 3.2. Tỷ lệ PNMT xét nghiệm HIV tự nguyện theo tháng của thai kỳ

Từ bảng trên, chiếm tỷ lệ lớn đối tượng nghiên cứu xét nghiệm HIV tự nguyện ở tháng thứ 1 đến 3 của thai kỳ với 63,4%, tiếp theo là 4 đến 6 tháng với 34,9%. Kết quả cho chúng ta thấy, PNMT có xu hướng xét nghiệm HIV tự nguyện sớm hơn ở các giai đoạn đầu khi mang thai, đây là một hành vi tích cực trong dự phòng lây nhiễm HIV từ me sang con. Theo nghiên cứu của Phan Thanh Xuân cũng có kết quả tương tự [5].

Bảng 3.3. Nơi  xét nghiệm HIV tự nguyện của PNMT

Bảng 3.3 cho chúng ta thấy, tỷ lệ PNMT xét nghiệm HIV tự nguyện ở trạm y tế xã chiếm cao nhất là 73,4%, tiếp theo là trung tâm y tế huyện (14,1%), xét nghiệm ở trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tỉnh chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,7%). Theo nghiên cứu của Trịnh Thị Phương Lan, có 84,7% PNMT làm xét nghiệm tại Bệnh viện sản [2].

Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ % PNMT được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện

Qua kết quả biểu đồ 3.2, hầu hết phụ nữ mang thai đã được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện chiếm 98,5%, chỉ có 1,5% đối tượng chưa được tư vấn về xét nghiệm này. Theo nghiên cứu của Trịnh Thị Phương Lan, chỉ có 58,8% PNMT được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện trước xét nghiệm[2].

Bảng 3.4. Số lần PNMT được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện

Số lần đối tượng được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện 1 lần đạt cao nhất với 71,5%, tiếp theo là được tư vấn 2-3 lần với 26,6%. Tỷ lệ thấp nhất là đối tượng được tư vấn trên 3 lần là 2,1%.

Bảng 3.5. Tỷ lệ PNMT được tư vấn sau xét nghiệm HIV tự nguyện

Bảng 3.5 cho chúng ta thấy, phần lớn PNMT được tư vấn sau khi xét nghiệm HIV tự nguyện (81,9%) cao hơn nghiên cứu của Trịnh Thị Phương Lan (49,6%) [2].

Bảng 3.6. Tỷ lệ PNMT đồng ý  điều trị nếu biết kết quả xét nghiệm HIV dương tính

Kết quả ở bảng trên cho thấy có 65% PNMT sẽ đồng ý điều trị nếu biết kết quả xét nghiệm HIV dương tính, vẫn còn một tỷ lệ 35% không đồng ý điều trị. Điều này nói lên rằng sự kỳ thị, phân biệt đối sử và sừ tự kỳ thị, phân biệt đối xử của người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn phổ biến trong xã hội, cộng đồng và gia đình và là một rào cản không nhỏ trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu 401 PNMT tại 8 xã/thị trấn thuộc huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình năm 2016, chúng ta đưa ra được một số thực trạng sử dụng dịch vụ xét nghiệm HIV tự nguyện của đối tượng nghiên cứu như sau:

- PNMT có xét nghiệm HIV tự nguyện chiếm tỷ lệ tương đối cao (90,3%).

- Tỷ lệ PNMT xét nghiệm HIV tự nguyện 1 lần chiếm cao nhất với 55,5%.

- Phần lớn PNMT xét nghiệm HIV tự nguyện ở tháng thứ 1 đến 3 của thai kỳ chiếm 62,7%.

- Tỷ lệ PNMT xét nghiệm HIV tự nguyện ở trạm y tế xã chiếm cao nhất (73,4%).

- Hầu hết PNMT đã được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện (98,5%).

- Số PNMT được tư vấn về xét nghiệm HIV tự nguyện 1 lần đạt cao nhất (71,3%).

KHUYẾN NGHỊ

Để tiếp tục nâng cao và duy trì tỷ lệ PNMT sử dụng dịch vụ xét nghiệm HIV tự nguyện, góp phần đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, chúng ta tiếp tục tăng cường các hoạt động truyền thông thay đổi hành vi, giúp nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành đúng của thai phụ về dự phòng lây truyền  HIV từ mẹ sang con.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Quang Hiền, Trần Thị Phương Mai (2010), "Kiến thức, thái độ của phụ nữ mang thai về dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con qua tư vấn xét nghiệm tự nguyện HIV tại tỉnh An Giang", Tạp chí Y học thực hành. 730, tr. 17-20.

2. Trịnh Thị Phương Lan (2010), Đánh giá tình hình cung cấp và sử dụng dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện cho phụ nữ mang thai tại thành phố Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng Hà Nội.

3. Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Ninh Bình (2015), Báo cáo thực trạng HIV/AIDS tỉnh Ninh Bình.

4. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm (2012), Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, Hà Nội.

5. Phan Thanh Xuân (2015), Hiệu quả can thiệp dự phòng lây truyền HIV ở phụ nữ mang thai tại hai quận, huyện thành phố Hồ Chí Minh năm 2010-2012, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

6. Zoung-Kanyi Bissek A. C., I. E. Yakana, F. Monebenimp, et al (2011), "Knowledge of Pregnant Women on Mother to Child Transmission of HIV in Yaounde", Open AIDS J.

Nguyễn Văn Tiến1, Đỗ Văn Dung2, Phan Khắc Lưu3, Phạm Thị Huyền1, Trương Diệu Thu1, Đào Huy Cừ1

(1. Đại học Y Dược Thái Bình; 2. Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Ninh Bình; 3. Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Ninh Bình.)

Các tin khác