Một là: Nâng độ tuổi kết hôn của nữ giới
Tại điều 8 điều kiện kết hôn : Khoản 1 điểm a quy định “… nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Như vậy về độ tuổi kết hôn, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã nâng độ tuổi kết hôn của nữ lên đủ 18 tuổi thay cho bước sang tuổi 18 (17 tuổi + 1 ngày…) như quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, đối với nam vẫn giữ nguyên quy định từ đủ 20 tuổi trở lên.
Hai là: Cho phép mang thai hộ
Quy định tại điều 94 đến điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Việc mang thai hộ chỉ được thực hiện khi có đầy đủ các điều kiện quy định tại điều 95, cụ thể là: phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và phải được lập thành văn bản; vợ, chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi đủ các điều kiện: có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý; người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện: Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ, đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn vản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Luật cũng quy định cụ thể việc xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, giải quyết tranh chấp liên quan đến việc mang thai hộ…
Ba là: Thỏa thuận về tài sản của vợ, chồng khi kết hôn
Ngoài chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, từ điều 47 đến điều 50 và điều 59. Việc thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm: tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; nội dung khác có liên quan. Thỏa thuận về tài sản này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn.
Ngoài những nội dung trên, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn quy định cụ thể cách giải quyết về con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng các bên khi nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn; không tính thời gian chung sống như vợ chồng trước khi kết hôn và thời kỳ hôn nhân.
Bốn là: Không cấm kết hôn đồng giới
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới và quy định chế tài, xử phạt nếu vi phạm. Nay theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”. Tuy vậy Luật mới cũng vẫn “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” tại khoản 2 điều 8 quy định. Song đây cũng được coi là một bước tiến về nhận thức trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của Nhà nước ta trong tình hình xã hội, quốc tế hiện nay.
Năm là: Thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung thêm các đối tượng được yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn tại khoản 2 điều 51. Theo đó, thay vì chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ, chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây, từ ngày 01/01/2015 trở đi cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Sáu là: Áp dụng tập quán trong hôn nhân gia đình
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cụ thể việc áp dụng tập quán trong hôn nhân gia đình, đó là “Chỉ được áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận, nhưng không được trái với các nguyên tắc vi phạm các điều cấm tại Luật này”. Bởi vì pháp luật hiện hành chỉ quy định “vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”. Quy định như vậy là chung chung tạo nhiều kẽ hở, bất cập, dẫn tới vi phạm pháp luật và việc giải quyết tranh chấp trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Đoàn Mạnh Ất (Hội Luật gia tỉnh Ninh Bình)