Trong quá trình thực hiện chương trình xây dựng NTM đã có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị các cấp, của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội và của các tầng lớp nhân dân. Người dân đã phát huy vai trò làm chủ trong xây dựng NTM. Đến hết năm 2018, đã có 90/119 xã đạt chuẩn NTM (chiếm tỷ lệ 75,6 %), 02 huyện đạt chuẩn NTM và 01 thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Ninh Bình được Trung ương đánh giá là điểm sáng trong phong trào xây dựng NTM. Sự tham gia của người dân là một trong những nguồn lực quan trọng trong xây dựng NTM của tỉnh Ninh Bình thời gian vừa qua.
Ninh Bình là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, diện tích 1.400 Km2, dân số 991.915 người. Trên địa bàn tỉnh có hai tôn giáo chính là: Phật giáo và Công giáo, trong đó 17, 69% dân số theo đạo Công giáo. Địa bàn có nhiều người dân theo đạo Công giáo là huyện Kim Sơn. Trên địa bàn huyện Kim Sơn 51,3% dân số là người có đạo, trong đó đạo Công giáo chiếm 45,7%; 11/27 xã, thị trấn tỷ lệ đồng bào có đạo trên 60% dân số, 4 xã tỷ lệ đồng bào có đạo trên 80% dân số. Với đặc thù đó, trong quá trình triển khai thực hiện chương trình xây dựng NTM, cấp ủy đảng và chính quyền, mặt trận tổ quốc các cấp đã tập trung tuyên truyền, vận động, tổ chức cho đồng bào công giáo phát huy vai trò làm chủ tham gia xây dựng NTM.
Thực tiễn vận động, tổ chức và sự tham gia của người dân nói chung, đồng bào công giáo nói riêng trong xây dựng NTM, trong rất nhiều hoạt động mà người dân chung tay xây dựng NTM, có hoạt động tổ chức sản xuất xây dựng NTM ở xã, phường trên địa bàn tỉnh. Có thể nói, công tác tổ chức sản xuất xây dựng NTM là khâu/yếu tố tiên quyết, quyết định sự thành bại của một hoạt động triển khai kế hoạch có hiệu quả trong Chương trình xây dựng NTM. Thời gian vừa qua công tác tổ chức sản xuất đã cho chúng ta thấy được những kinh nghiệm quý báu cần được nghiên cứu, sơ kết, tổng kết và nhân rộng để phát huy vai trò của người dân trong tổ chức sản xuất xây dựng NTM thời gian tới. Nghiên cứu vai trò chủ thể của người công giáo trong tổ chức sản xuất xây dựng nông thôn mới ở xã, phường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn 2011-2019, vừa đánh giá kết quả đạt được, rút ra những kinh nghiệm trên cơ sở đó kiến nghị các giải pháp nhằm phát huy vai trò chủ thể của người công giáo tổ chức sản xuất xây dựng NTM trong giai đoạn tiếp theo.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi triển khai nghiên cứu chuyên đề “Thực trạng vai trò chủ thể của người công giáo trong tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới ở xã, phường, giai đoạn 2011-2019”.
Mục tiêu của chuyên đề: Mô tả thực trạng vai trò chủ thể của người công giáo trong tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới ở xã, phường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, giai đoạn 2011-2019.
Chương 1
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Người dân, trong đó có đồng bào công giáo.
- Cán bộ các cấp có liên quan tới chương trình xây dựng nông thôn mới
1.2. Địa điểm nghiên cứu
Cán bộ và người dân thuộc 3 huyện: Kim Sơn, Yên Khánh, Nho Quan.
1.3. Thời gian nghiến cứu: từ tháng 12/2019 – 02/2020.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1.Thiết kế nghiên cứu
Để hoàn thành các mục tiêu của chuyên đề, chúng tôi sử dụng thiết kế nghiên cứu là nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.
1.4.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
- Phỏng vấn cán bộ: mẫu toàn thể, thực tế điều tra 196 phiếu.
- Phỏng vấn HGĐ: 1.600
1.4.3. Xử lý số liệu
- Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 13.1
- Xử lý số liệu, sử dụng phần mềm SPSS 20.0
Chương 2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
2.1. Kết quả nghiên cứu về đối tượng nghiên cứu là cán bộ
a) Cán bộ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM
Nhận xét:
Bảng trên cho thấy, tỷ lệ cán bộ trực tiếp tham gia sản xuất, tham gia tổ chức và triển khai các ngành nghề nông nghiệp dưới hình thức HTX, liên kết sản xuất với tỷ lệ tương đối cao, chiếm 73,5%. Vấn đề đặt ra về an toàn thực phẩm của các nông sản mà người dân, người làm nông nghiệp là một vấn đề tương đối khó khăn, vì người dân vẫn còn mang nặng thói quen dùng chất bảo vệ thực vật, chất bảo quản thực phẩm không an toàn, vì lợi ích trước mắt, lợi ích cá nhân mà bất chấp các quy định về an toàn thực phẩm. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu trên đối tượng là cán bộ với tỷ lệ 50% họ đã sản xuất nông sản đảm bảo ATTP cũng là kết quả đáng khích lệ.
Nhận xét:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cán bộ là người công giáo có tỷ lệ tham gia HTX, liên kết sản xuất cao hơn nhớm khác (80,9% so với 69,5%), cao hơn 1,8 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Ngược lại, cán bộ là người công giáo họ sản xuất nông sản lại không đảm bảo ATTP hơn so với nhóm khác (42,6% so với 53,9%), thấp hơn 0,6 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Nhận xét:
Theo kết quả nghiên cứu, cán bộ ở các xã đạt chuẩn về NTM, họ có tỷ lệ tham gia HTX, liên kết sản xuất lại thấp hơn xã chưa đạt chuẩn (68% so với 83,1%), thấp hơn 0,4 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
Ngược lại, cán bộ thuộc xã đạt chuẩn họ lại sản xuất nông sản đảm bảo ATTP cao hơn xã chưa đạt chuẩn (64,8% so với 23,9%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
b) Cán bộ nhận định về vai trò của người công giáo tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM
Nhận xét:
Cán bộ cho rằng, hầu hết người dân trong cộng đồng dân cư đều nhận thức tốt về vai trò của họ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới, chiếm 98%. Nói riêng về vai trò của người công giáo chỉ chiếm 5,6%.
2.2. Kết quả nghiên cứu về người dân
2.2.1. Vai trò chủ thể của người công giáo tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM
Nhận xét:
Kết quả nghiên cứu cho ta thấy, trong tổng số 1594 người được phỏng vấn có 1294 người (81,2%) tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM, trong số đó hầu hết (94,2%) họ tham gia hoạt động xoá đói, giảm nghèo; các hoạt động khác với tỷ lệ thấp hơn: tham gia triển khai mô hình sản xuất mới chiếm 30,0% và đào tạo nghề, chuyển đổi ngành nghề chỉ chiếm 17,6%.
Nhận xét:
Đánh giá về việc tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM trong cộng đồng dân cư, chúng ta thấy tỷ lệ người công giáo tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn so với nhóm khác (82,8% so với 79,4%), cao hơn 1,2 lần, và sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Nhận xét:
Trong nhóm đồng bào công giáo, tỷ lệ người dân tham gia đào tạo nghề, chuyển đổi lao động ngành nghề; tham gia xây dựng và triểnn khai mô hình sản xuất mới thấp hơn nhóm khác. Với p<0,001.
Riêng hoạt động xoá đói, giảm nghèo, tỷ lệ này lại cao hơn ở nhóm công giáo. Với p<0,01.
Nhận xét:
Đánh giá về việc tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM trong cộng đồng dân cư các xã, chúng ta thấy tỷ lệ người dân các xã đạt chuẩn về NTM tham gia tổ chức sản xuất tương đồng so với các xã chưa đạt chuẩn (81,2% so với 81,1%).
Nhận xét:
Trong các xã đạt chuẩn về NTM, tỷ lệ người dân tham gia đào tạo nghề, chuyển đổi lao động ngành nghề; tham gia xây dựng và triển khai mô hình sản xuất mới cao hơn các xã chưa đạt chuẩn. Với p<0,001.
Riêng hoạt động xoá đói, giảm nghèo, tỷ lệ này lại thấp hơn ở các xã đạt chuẩn NTM. Với p<0,001.
Nhận xét:
- Đánh giá theo học vấn của người dân, nhóm những người có học vấn thấp từ tiểu học trở xuống có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM thấp hơn nhóm khác (13,1% so với 14,3%), thấp hơn 0,9 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
- Đánh giá theo trình độ chuyên môn của người dân, nhóm những người không có chuyên môn có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM thấp hơn nhóm khác (83,8% so với 85,7%), thấp hơn 0,9 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
- Đánh giá theo nghề nghiệp của người dân, nhóm những người có nghề nghiệp là công chức, viên chức có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM tương đồng với nhóm khác (6,1% so với 6,0%).
- Đánh giá theo thu nhập trung bình đầu người trên tháng, nhóm những người nghèo, cận nghèo có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM thấp hơn nhóm khác (7,6% so với 8,7%), thấp hơn 0,9 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
- Đánh giá theo số nhân khẩu trong hộ gia đình, nhóm những hộ có số nhân khẩu từ 4 người trở xuống có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (77,7% so với 75,3%), cao hơn 1,4 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Nhận xét:
- Đánh giá theo tham gia xây dựng kế hoạch, nhóm những người có tham gia có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm người không tham gia (57,7% so với 13,3%), cao hơn 8,9 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá theo tham gia xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội, nhóm những người có tham gia có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm người không tham gia (99,8% so với 94,3%), cao hơn 25,9 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá theo tham gia xây dựng đời sống văn hoá, môi trường, nhóm những người có tham gia có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất tring xây dựng NTM cao hơn nhóm người không tham gia (99,5% so với 90,7%), cao hơn 18,9 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá theo tham gia xây dựng hệ thống chính trị, nhóm những người có tham gia có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm người không tham gia (95,9% so với 47%), cao hơn 26,4 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
Kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy có mối liên quan rất hữu cơ giữa nhóm người có tham gia các hoạt động xây dựng NTM với nhóm người tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM, những người tham gia các hoạt động xây dựng NTM có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác.
Nhận xét:
- Đánh giá theo hoạt động hiến đất xây dựng NTM, nhóm những người hiến đất có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuât trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (22,6% so với 10,6%), cao hơn 2,5 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá theo hoạt động hỗ trợ tiền xây dựng NTM, nhóm những người có hỗ trợ có tỷ lệ tham tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM thấp hơn nhóm khác (84,9% so với 92,2%), thấp hơn 0,5 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá theo hoạt động đóng góp ngày công xây dựng NTM, nhóm những người đóng góp có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (69,5% so với 37,8%), cao hơn 3,7 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá theo hoạt động hiến kế sách xây dựng NTM, nhóm những người hiến kế có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (20,1% so với 8,1%), cao hơn 2,8 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
Kết quả nghiên cứu của người dân tham gia một số hoạt động cụ thể, thiết thực trong hoạt động tổ chức sản xuất chúng ta thấy có mối liên quan hữu cơ giữa những người có tham gia các hoạt động xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội trong xây dựng NTM với tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM. Những người có tham gia các hoạt động xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (trừ hoạt động hỗ trợ tiền).
Nhận xét:
Đánh giá về hoạt động tham tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM theo đơn vị huyện, chúng ta thấy huyện Nho Quan, Yên Khánh có tỷ lệ người dân tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn huyện Kim Sơn. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
2.2.2. Một số khó khăn, trở ngại và kiến nghị trong tham gia kế hoạch xây dựng nông thôn mới của người công giáo
Nhận xét:
- Nhóm người dân họ cho rằng còn hạn chế trong nhận thức về xây dựng NTM có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM mới thấp hơn nhóm khác (40,7% so với 53%), thấp hơn 0,6 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Nhóm người dân họ cho rằng còn thiếu thông tin, kiến thức về xây dựng NTM có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM mới thấp hơn nhóm khác (16,4% so với 39%), thấp hơn 0,3 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Nhóm người dân họ cho rằng kinh tế gia đình còn khó khăn có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM mới cao hơn nhóm khác (36,6% so với 25,3%), cao hơn 1,7 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Nhóm người dân họ cho rằng gia đình neo người có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM mới tương đồng với nhóm khác.
Kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy có 2 lý do chủ quan từ phía người dân liên quan tới hoạt động tham gia tổ chức sản xuât trong xây dựng NTM đó là nhận thức của người dân còn hạn chế, người dân còn thiếu thông tin, kiến thức về xây dựng NTM. Vấn đề đặt ra cho ban chỉ đạo xây dựng NTM các cấp, các cơ quan, ban ngành liên quan cần tăng cường công tác thông tin, truyền thông về chương trình NTM, giúp người dân thay đổi nhận thức và bổ sung thông tin, kiến thức để họ có những hoạt động tích cực tham gia vào chương trình xây dựng NTM mới có hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, tuy người dân còn có nhiều khó khăn về kinh tế gia đình, khó khăn do neo người, nhưng người dân không vì thế mà ảnh hưởng tới việc tham gia các hoạt động xây dựng NTM, trong đó có tham gia tích cực vào tổ chức sản xuât tring xây dựng NTM. Nhóm những người có hoàn cảnh khó khăn như trên lại tham gia tích cực hơn vào kế hoạch xây dựng NTM hơn các nhóm khác.
Nhận xét:
- Đánh giá kiến nghị của người dân về triển khai, học tập các chủ trương, chính sách xây dựng NTM sâu rộng cho người dân, nhóm những người có kiến nghị có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng cao hơn nhóm khác (45,6% so với 40,0%), cao hơn 1,3 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
- Đánh giá kiến nghị của người dân về biết rõ lợi ích mang lại cho họ khi xây dựng NTM, nhóm những người có kiến nghị có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM tương đồng với nhóm khác (72% so với 71,7%).
- Đánh giá kiến nghị của người dân về có sự tham gia của họ trong quá trình xây dựng NTM, nhóm những người có kiến nghị có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (47,1% so với 32,3%), cao hơn 1,9 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá kiến nghị của người dân về đảm bảo công khai, minh bạch các nguồn lực trong xây dựng NTM, nhóm những người có kiến nghị có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (81,8% so với 61,3%), cao hơn 2,1 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
- Đánh giá kiến nghị của người dân về làm tốt công tác thi đua khen thưởng trong xây dựng NTM, nhóm những người có kiến nghị có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác (41,2% so với 34%), cao hơn 1,4 lần. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
Kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy, những người dân có những kiến nghị, đề xuất giải pháp tích cực trong xây dựng NTM đều có tỷ lệ cao tham gia tổ chức sản xuât trong xây dựng NTM, điều này nói lên rằng khi người dân họ đã có nhận thức tốt, có quan điểm đúng, có chính kiến tích cực về một vấn đề gì đó thì họ sẵn sàng hành động để đạt được mục đích hoặc mục tiêu của họ.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu điều tra thực tế trên 196 cán bộ cấp xã, 1600 người dân về vai trò chủ thể người công giáo tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Kim Sơn, Yên Khánh và Nho Quan tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2019, chúng ta đưa ra những kết luận về vai trò chủ thể của người công giáo tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM như sau:
- Vai trò của cán bộ cấp xã và nhận định của họ về vai trò của người công giáo:
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cán bộ là người công giáo có tỷ lệ tham gia HTX, liên kết sản xuất cao hơn nhớm khác (80,9% so với 69,5%), cao hơn 1,8 lần. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Cán bộ cho rằng, hầu hết người dân trong cộng đồng dân cư đều nhận thức tốt về vai trò của họ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới, chiếm 98%.
- Vai trò của người công giáo:
Kết quả nghiên cứu cho ta thấy, trong tổng số 1594 người được phỏng vấn có 1294 người (81,2%) tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM, trong số đó hầu hết (94,2%) họ tham gia hoạt động xoá đói, giảm nghèo; các hoạt động khác với tỷ lệ thấp hơn: tham gia triển khai mô hình sản xuất mới chiếm 30,0% và đào tạo nghề, chuyển đổi ngành nghề chỉ chiếm 17,6%.
Đánh giá về việc tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM trong cộng đồng dân cư, chúng ta thấy tỷ lệ người công giáo tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn so với nhóm khác (82,8% so với 79,4%), cao hơn 1,2 lần, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05.
Trong nhóm đồng bào công giáo, tỷ lệ người dân tham gia đào tạo nghề, chuyển đổi lao động ngành nghề; tham gia xây dựng và triểnn khai mô hình sản xuất mới thấp hơn nhóm khác. Với p<0,001. Riêng hoạt động xoá đói, giảm nghèo, tỷ lệ này lại cao hơn ở nhóm công giáo. Với p<0,01.
Kết quả nghiên cứu cho chúng ta thấy có mối liên quan rất hữu cơ giữa nhóm người có tham gia các hoạt động xây dựng NTM với nhóm người tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM, những người tham gia các hoạt động xây dựng NTM có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn nhóm khác. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
Đánh giá về sự tham gia các hoạt động khác trong xây dựng NTM, nhóm những người có hoạt động tích cực khác có tỷ lệ tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM cao hơn, gồm: nhóm tham gia kế hoạch; nhóm tham gia xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội; nhóm tham gia xây dựng đời sống văn hoá, môi trường; nhóm tham gia xây dựng hệ thống chính trị; nhóm những người tham gia hiến đất, đóng góp ngày công và hiến kế sách. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
Đánh giá về một số khó khăn của người dân khi tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM:
(1) Nhóm những người không tích cực tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM gồm: nhóm người còn hạn chế về nhận thức; nhóm người thiếu thông tin, kiến thức. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
(2) Nhóm những người tích cực tham gia kế hoạch xây dựng NTM gồm: nhóm người còn khó khăn về kinh tế gia đình; nhóm hộ gia đình neo người.
Đánh giá về những kiến nghị của người dân tham gia tổ chức sản xuất trong xây dựng NTM, nhóm những người có kiến nghị đều tích cực tham gia kế hoạch xây dựng NTM gồm: nhóm người kiến nghị về có sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng NTM; về đảm bảo công khai, minh bạch các nguồn lực trong xây dựng NTM; về làm tốt công tác thi đua khen thưởng trong xây dựng NTM. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, với p<0,001.
Đỗ Văn Dung, Đỗ Việt Anh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sở Nội vụ tỉnh Ninh Bình (2019), “Đẩy mạnh hệ thống quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới – thực trạng, định hướng và giải pháp”. Tài liệu Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2010-2020.tr 103-106.
2. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1730/QĐ-TTg ngày 5/9/2016 về ban hành Kế hoạch thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
3. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
4. Tỉnh ủy Ninh Bình (2016), Văn kiện Đại hộ đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXI, Ninh Bình.
5. UBND tỉnh Ninh Bình (2019), Báo cáo số 157/BC-UBND, ngày 30/9/2019 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc Tổng kết phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” giai đoạn 2010-2020 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình.