Ninh Bình là tỉnh nằm ở phía Đông Nam đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp với tam giác châu thổ Bắc Bộ, phía Đông là đồng bằng, phía Nam là biển Đông, dãy Tam Điệp là giải phân cách giữa đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ. Diện tích tuy nhỏ so với các tỉnh trong khu vực, nhưng địa hình lại rất đa dạng, phức tạp, cùng với hệ tài nguyên phong phú và những cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, chứa đựng những tiềm năng to lớn, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với con người.
Là một tỉnh mới tái lập (1/04/1992), xuất phát điểm về kinh tế - xã hội thấp, lực lượng sản xuất còn lạc hậu. Những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế nhanh, liên tục nhưng Ninh Bình vẫn là một tỉnh nghèo. Do đó, vấn đề việc làm và đời sống đặt ra gay gắt. Hơn nữa, khi sản xuất nông nghiệp phát triển dựa trên cơ sở ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến làm cho năng suất vật nuôi cây trồng đều tăng cao, điều đó vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa đòi hỏi tất yếu phải phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, trong đó phát triển làng nghề truyền thống là một hướng cơ bản khả thi đối với tỉnh Ninh Bình. Hiện nay, ở tỉnh Ninh Bình có 215 làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, trong đó có 54 làng nghề được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận đạt danh hiệu làng nghề sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cấp tỉnh (33 làng nghề sản xuất, chế biến cói; 5 làng nghề chế tác đá mỹ nghệ, 04 làng nghề thêu ren, 6 làng nghề mây tre đan, 01 làng nghề sản xuất cốt chăn bông, 02 làng nghề bún, 02 làng nghề mộc, 01 nghề làng gốm mỹ nghệ). Theo báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động làng nghề của các huyện, thành phố, thị xã thì đến hết năm 2012, tổng số hộ làm nghề trong các làng nghề là 14.369 hộ với 27.220 lao động. Giá trị sản xuất nghề năm 2012 đạt 1.407,7 tỷ đồng. Các làng nghề được phân bố theo địa bàn: Huyện Kim Sơn 23 làng nghề; huyện Yên Khánh 07 làng nghề; huyện Yên Mô 06 làng nghề; huyện Hoa Lư 07 làng nghề; huyện Nho Quan 05 làng nghề; huyện Gia Viễn 05 làng nghề; thành phố Ninh Bình 01 làng nghề. Hoạt động của các làng nghề này đã tạo việc làm cho khoảng 8.000 lao động, nhất là lao động vùng nông thôn, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, đồng thời cũng tạo được những nét riêng của các làng nghề để khách du lịch tìm hiểu, khám phá. Tỉnh Ninh Bình rất quan tâm đến sự phát triển làng nghề truyền thống và đã ban hành một số văn bản liên quan đến phát triển làng nghề như: Ngày 09/8/2006 Tỉnh uỷ ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU về đẩy mạnh trồng, chế biến cói; thêu ren và chế tác đá mỹ nghệ; ngày 19/4/2012 Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Thông báo số 518-TB/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU...
Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn các làng nghề còn sản xuất theo quy mô nhỏ lẻ, chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường, chưa kết hợp với việc phát huy các giá trị truyền thống để phát triển du lịch ngay tại làng nghề. Tại các địa phương chưa có Ban quản lý làng nghề; công tác quảng bá, tiếp thị trong phát triển làng nghề gắn với du lịch vẫn còn yếu, trình độ quản lý của các làng nghề truyền thống còn hạn chế, việc tổ chức sản xuất theo mô hình tập thể (tổ liên kết sản xuất, hợp tác xã) còn gặp nhiều khó khăn. Lao động qua đào tạo rất ít, chưa quen với tác phong lao động công nghiệp, khả năng tích lũy vốn phục vụ phát triển lâu dài không cao. Hiện nay, còn nhiều cơ sở sản xuất còn nằm xen kẽ trong khu dân cư gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe người dân trong khu vực (như các cơ sở đá mỹ nghệ, bún, bánh đa, chiếu cói). Vì vậy, để nâng cao hiệu quả phát triển làng nghề ở tỉnh Ninh Bình, chúng ta cần quan tâm tới một số giải pháp sau:
Thứ nhất, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển làng nghề truyền thống.
Đây là vấn đề quan trọng đối với phát triển làng nghề truyền thống. Bởi lẽ, thông qua việc tổ chức xây dựng quy hoạch, kế hoạch, các cơ quan chức năng mới xác định được các tiềm năng, các nguồn lực của địa phương, khả năng khai thác các nguồn lực đó để tính toán cung - cầu. Đồng thời, đề ra các biện pháp kỹ thuật, công nghệ và những biện pháp về vốn và tổ chức quản lý phù hợp, sát với thực tiễn để thúc đẩy phát triển các ngành nghề làng nghề.
Về công tác quy hoạch, trước tiên, trên cơ sở khảo sát về số lượng ngành nghề, sự phân bố làng nghề và triển vọng phát triển của từng ngành nghề mà có kế hoạch phát triển cụ thể. Những làng nghề truyền thống nào có triển vọng phát triển tập trung đầu tư để có thể vừa tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và giữ gìn nghề truyền thống. Bên cạnh đó cần nhân rộng những nghề mới phù hợp với tiềm năng, tài nguyên và lao động trong các làng nghề.
Tăng cường sự phối hợp của các cấp các ngành để hoàn thành thủ tục, công khai quy hoạch, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư vào sản xuất trong các làng nghề. Cần thực hiện sự phân cấp rõ ràng trong quy hoạch và tổ chức thực hiện xây dựng, phát triển các làng nghề để tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý.
Thứ hai, mở rộng và phát triển đồng bộ các loại thị trường tiêu thụ cho làng nghề truyền thống.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, việc tìm kiếm, mở rộng và đa dạng hóa thị trường cho làng nghề truyền thống là nhân tố có ý nghĩa quyết định thúc đẩy sự phát triển của làng nghề truyền thống.
Để tạo lập thị trường cho làng nghề truyền thống, trước hết, các cấp, các ngành trong tỉnh cần: tạo điều kiện và giúp đỡ làng nghề mở rộng thị trường với các nước. Thực hiện chương trình khuyến khích xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm chế biến nông sản; cung cấp thông tin về thị trường, giá cả cho làng nghề; tạo mọi điều kiện cho làng nghề nâng cao sức cạnh tranh để hòa nhập vào thị trường khu vực và thị trường quốc tế nhằm mở rộng phạm vi trao đổi tiêu thụ sản phẩm; khuyến khích và tạo điều kiện cho làng nghề phát triển về mẫu mã, kiểu cách của sản phẩm; thực hiện một cách nghiêm túc việc kiểm tra, kiểm soát để hạn chế việc kinh doanh hàng giả, hàng trốn lậu thuế; phát triển thị trường du lịch gắn với làng nghề, gắn hoạt động của một số làng nghề với phát triển văn hoá cộng đồng, du lịch sinh thái để hình thành tuyến du lịch làng nghề có tính nhân văn cao. Tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, kết hợp khôn khéo giữa “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” trong sự hoạt động của thị trường; xây dựng và phát triển mạnh mẽ hệ thống chợ làng trong làng nghề nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Chú trọng phát triển các loại thị trường như: thị trường sản phẩm, hàng hóa; thị trường xuất khẩu; thị trường vốn; thị trường công nghệ.
Thứ ba, đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh trong làng nghề truyền thống.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, làng nghề truyền thống ở tỉnh Ninh Bình đã và đang xuất hiện các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh mới, do vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề truyền thống phát triển một cách đa dạng phong phú các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh như: hộ gia đình; tổ hợp tác; hợp tác xã; doanh nghiệp tư nhân; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần. Tuỳ theo trình độ phát triển, tính chất của từng làng nghề mà việc đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh có khác nhau. Có như vậy, mới có thể khai thác được các tiềm năng về vốn, con người, nguyên vật liệu... của địa phương trong phát triển làng nghề truyền thống.
Thứ tư, chuyển giao công nghệ thích hợp và đổi mới công nghệ cho làng nghề truyền thống.
Chuyển giao công nghệ là con đường chủ yếu để đổi mới trang thiết bị cho làng nghề truyền thống nhằm nâng cao năng suất lao động, đáp ứng nhu cầu thị trường, phù hợp với khả năng, điều kiện của mỗi làng nghề về vốn, lao động, chất xám và tay nghề...
Con đường chuyển giao công nghệ thích hợp nhất cho làng nghề truyền thống ở tỉnh Ninh Bình hiện nay là tổ chức nghiên cứu khoa học, tạo mẫu mã thiết kế kỹ thuật đi đôi với cải tiến, hiện đại hóa công nghệ truyền thống, đồng thời nhập và chuyển giao kỹ thuật, trang thiết bị, công nghệ từ nơi khác đến, có thể là từ các doanh nghiệp trong nước hoặc từ nước ngoài. Tuy nhiên, phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới công nghệ cho làng nghề truyền thống cần có sự kết hợp đan xen giữa cổ truyền và hiện đại, giữa thủ công và cơ khí. Vì vậy, trong chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ cho làng nghề truyền thống cần phải: khuyến khích các cơ sở sản xuất trong làng nghề truyền thống đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ thiết bị, hiện đại hóa công nghệ truyền thống, áp dụng công nghệ nhiều trình độ trong khu vực sản xuất của làng nghề làm cho sản phẩm làm ra cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước; các cơ quan chức năng cần có tư vấn pháp lý, tư vấn dịch vụ, về quản lý kinh doanh, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ kỹ thuật, nghiên cứu hoàn thiện công nghệ mới và chế tạo máy móc cho làng nghề; khuyến khích các cơ sở sản xuất và cá nhân người lao động nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ ở trình độ thấp lên trình độ cao, cơ khí hóa ở phạm vi rộng hơn, cao hơn để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Thứ năm, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho làng nghề truyền thống.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của làng nghề truyền thống của địa phương và kinh tế - xã hội nông thôn. Việc đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn nói chung và làng nghề truyền thống ở Ninh Bình nói riêng là một biện pháp cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, cần tập trung phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn; phát triển mạng lưới cung cấp điện; phát triển hệ thống thông tin liên lạc...
Thứ sáu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động của các làng nghề.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người dân ở làng nghề. Đây là yếu tố cơ bản, có tính chất quyết định đến chất lượng lao động nông thôn. Hiện nay, đội ngũ lao động trong làng nghề truyền thống ở Ninh Bình vẫn có nhiều người chưa qua đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, mà chủ yếu là truyền nghề trực tiếp. Trong những năm gần đây, các cơ quan chức năng trong tỉnh đã kết hợp với trường phổ thông cơ sở để dạy nghề cho học sinh và con em thuộc diện gia đình chính sách, nhưng khối lượng chưa nhiều. Cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý vừa ít về số lượng, vừa thấp về chất lượng. Trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn nhiều bất cập, hiểu biết về sản xuất kinh doanh, về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế. Vì vậy, phải có kế hoạch đào tạo người lao động trong các làng nghề theo các hướng: nâng cao trình độ dân trí và học vấn cho người lao động trong làng nghề; cải tiến chương trình và tổ chức lại hệ thống các trường dạy nghề. Tập trung chủ yếu vào đào tạo những kiến thức thiết thực cho việc phát triển của làng nghề truyền thống. Nhà nước có sự tài trợ về đội ngũ cán bộ giảng dạy và nội dung chương trình. Kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, giữa truyền nghề trực tiếp với đào tạo cơ bản và phải căn cứ vào từng ngành nghề cụ thể. Có kế hoạch cụ thể cùng với chính quyền địa phương và ngành giáo dục các cấp, đưa chương trình hướng nghiệp vào các trường phổ thông ở làng nghề truyền thống; Mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng hóa hình thức dạy nghề. Các đơn vị tổ chức sản xuất- kinh doanh cần rà soát lại nguồn nhân lực hiện có, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch bố trí cho đi đào tạo với nhiều hình thức: dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng và đào tạo tại chỗ... Đi đôi với vấn đề đào tạo là việc sử dụng; phải gắn việc đào tạo với giải quyết việc làm; kết hợp chặt chẽ với các địa phương thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ cán bộ trong làng nghề. Nội dung và hình thức đào tạo cần tập trung vào những vấn đề mới như cung cấp thông tin, những kiến thức cập nhật, phương thức quản lý tiên tiến và đặc biệt là kiến thức của nền kinh tế thị trường.
Thứ bảy, đổi mới các chính sách kinh tế đối với làng nghề.
Đây là một giải pháp quan trọng, có tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các làng nghề truyền thống. Vì vậy, cần phải quan tâm đổi mới một số chính sách kinh tế của nhà nước đối với làng nghề truyền thống như:
Một là, chính sách tạo vốn và khuyến khích đầu tư. Tỉnh cần tạo điều kiện trong việc huy động vốn an toàn và có hiệu quả cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Đa dạng hóa các hình thức cho vay vốn đối với làng nghề, có chính sách thực hiện lãi suất ưu đãi, thay đổi định mức cho vay và thời gian cho vay. Tăng cường kiểm soát các nguồn vốn vay để hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn vay có hiệu quả, đúng mục đích. Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng trong nông thôn. Đó là tín dụng cộng đồng làng xã để giúp đỡ nhau tạo vốn phát triển sản xuất trong làng nghề. Ưu tiên vốn đầu tư của ngân sách nhà nước để hỗ trợ và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho làng nghề truyền thống. Sự ưu tiên này cần tập trung vào các cơ sở sản xuất sử dụng nhiều lao động, sản xuất những mặt hàng xuất khẩu có giá trị.
Hai là, chính sách thuế. Tỉnh cần bổ sung hoàn chỉnh một số vấn đề về chính sách thuế như: thực hiện chính sách miễn, giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hộ gia đình sản xuất kinh doanh lần đầu và những sản phẩm mới đưa vào sản xuất, cơ sở sản xuất thực hiện áp dụng công nghệ mới. Tạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nhằm tăng thu nhập và tạo việc làm cho người lao động. Trước mắt, cần ưu tiên miễn giảm thuế đối với những làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ hoặc các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn. Trong đó, cần đặc biệt ưu tiên các cơ sở sản xuất của thương binh, người tàn tật, gia đình chính sách... Miễn giảm thuế đối với cơ sở dạy nghề gắn với việc giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động, các trung tâm dạy nghề truyền thống và các cơ sở dạy nghề tư nhân.
Ba là, tăng cường công tác quản lý của tỉnh đối với làng nghề truyền thống. Trước hết là, hoàn thiện hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh cho các làng nghề. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho môi trường sản xuất kinh doanh ở các làng nghề, trong đó, đặc biệt chú ý đến chính sách trợ giúp cho làng nghề có sản phẩm mang đậm nét văn hóa, nhưng đang gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Cần chỉ đạo các cấp, nhất là cấp lãnh đạo địa phương theo dõi và nắm chắc những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, nhằm giúp cho cơ quan cấp trên có được số liệu chính xác, đưa ra quyết định đúng đắn mang tính khả thi cao. Có kế hoạch phát triển mạnh mẽ những ngành nghề truyền thống mang hiệu quả kinh tế thiết thực, nhằm khai thác một cách đầy đủ nhất các lợi thế về lao động, về nguyên liệu và về tay nghề...
Bốn là, bảo vệ môi trường sinh thái và chống ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. Bảo vệ môi trường sinh thái là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm đúng mức trong làng nghề truyền thống, do vậy cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề: ở những nơi sản xuất có chất thải độc hại, nhất thiết phải tách khu sản xuất ra khỏi khu dân cư. Đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ và xây dựng hệ thống cấp thóat nước trong làng nghề. Cải tạo nhà xưởng, cải tạo môi trường nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Có kế hoạch khai thác sử dụng nguyên liệu tại chỗ, tận dụng các phế liệu của những doanh nghiệp ở đô thị, nhưng phải có kho tàng bến bãi và hệ thống xử lý chất độc hại do phế liệu, phế phẩm gây ra. Từng bước trang bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại để xử lý chất thải và khói bụi của làng nghề truyền thống. Đồng thời, cần có các biện pháp xử lý thích đáng những cơ sở sản xuất và cá nhân vi phạm về luật bảo vệ môi trường. Cần có các chính sách cụ thể khuyến khích làng nghề truyền thống giảm ô nhiễm môi trường thông qua các biện pháp trợ giúp về tài chính, kỹ thuật cũng như công nghệ...
Phát triển làng nghề truyền thống là vấn đề quan trọng có tính chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta nói chung, ở tỉnh Ninh Bình nói riêng. Với sự quan tâm và khuyến khích thích đáng của Nhà nước, sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ lao động thực hiện đồng bộ một loạt các giải pháp như đã nêu đặc biệt là giải pháp về thị trường, về kết cấu hạ tầng, về chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực thì chắc chắn làng nghề truyền thống ở tỉnh Ninh Bình sẽ phát triển ngày một vững chắc.
Thạc sỹ: Phan Thị Hồng Duyên
Trường Đại học Hoa Lư